Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đọc thơ của Thiền sư Shotetsu

15/03/202107:46(Xem: 5536)
Đọc thơ của Thiền sư Shotetsu

Đọc thơ của Thiền sư Shotetsu 

Nguyên Giác

 

Thiền sư Seigan Shōtetsu (1381-1459) là một trong vài người làm thơ nhiều nhất trong thi giới Nhật Bản. Chính xác, chúng ta không biết nhà sư đã sáng tác bao nhiêu bài thơ. Nhưng nhà sư kể lại trong một lá thư rằng vào tháng 4 của năm 1432, ngôi lều của nhà sư bốc cháy trong đêm, thiêu rụi mọi thứ trong lều và toàn bộ những bài thơ nhà sư đã sáng tác từ năm 20 tuổi, tất cả là 27,000 bài thơ trong 30 tập. Lúc đó Thiền sư 51 tuổi. Bây giờ, bộ sưu tập thơ Shōkonshū của Shotetsu còn khoảng 20,000 bài thơ.

Thơ của Shotetsu không làm theo thể haiku như đời sau. Thể thơ haiku hình thành vào thế ký thứ 17, dưới chiếc dù ảnh hưởng của các nhà thơ Matsuo Bashō (1644–1694) và Uejima Onitsura (1661–1738), định hình từ thể thơ hokku, chuyển từ thể thơ haikai hay renku. Thơ của nhà sư Seigan Shōtetsu (tên ngài có thể phiên âm là: Thanh Nham Chính Triệt) sáng tác vài thế kỷ trước đó, thường cũng là ngắn, nhưng không chính xác ở khổ 3 dòng và 17 âm như haiku. Trong ý thơ của thi sĩ Shotetsu, chúng ta đọc thấy ý đạo là hiển lộ ưu tiên. Thường không có đề cho riêng từng bài thơ, chỉ có nhan đề cho nhóm các bài thơ có nội dung gần nhau.

Như bài sau, trong nhóm bài nhan đề “Chân không là tự ngã”:

Khi tia nắng mùa thu
với mỗi ngày trôi qua
lụi tàn rõ hơn trong đời
buổi sáng rực rỡ hoa.

Bài thơ sau thuộc nhóm nhan đề “Than khóc”:

Hãy vội vã, người ơi
bất kể tông phái
nào bạn chọn
để tu học,
trong tuổi già
tim bạn sẽ kiệt lực
làm mọi nỗ lực gian nan.

Hay là bài thơ nhan đề “Nhìn lên kìa”.

Nhìn kìa
ai đó nói
chỉ tay vào
bầu trời thênh thang
với một ngón tay ---
nhưng không ai
bận tâm để nghe
và nhìn
vào mặt trăng.

.

Shotetsu sinh năm 1381 tại tỉnh Bitchu, Nhật Bản, và từ trần năm 1459 tại Kyoto. Theo nhà biên khảo Earl Miner, trong tác phẩm “An Introduction to Japanese Court Poetry” do Stanford University Press ấn hành 1968, viết nơi trang 139: “Shotetsu được một số học giả Nhật hiện nay nghĩ là nhà thơ xuất sắc nhất trong thế kỷ; khoảng 20,000 bài thơ của ông trong tuyển tập Shōkonshū, cho thấy ông cũng là một trong các nhà thơ sáng tác nhiều nhất trong truyền thống thơ cung đình.”

Shotetsu sinh trong một gia đình võ sĩ samurai bậc trung ở tỉnh Bitchū (bây giờ là Okayama), khoảng 10 năm sau theo gia đình dọn về Kyoto. Năm 15 tuổi, Shotetsu vào một ngôi chùa ở Nara và ở đây 5 năm để học, kể cả kinh điển Phật Giáo. Sau khi thân phụ từ trần năm 1400, Shotetsu trở về Kyoto, tìm một người bạn vong niên có tên là Imagawa Ryōshun (sinh: 1325/1326?; chết: 1417/1420) và yêu cầu bạn dạy cho “Đạo của Thơ” ("Way of Poetry").

Lớn tuổi hơn Shotetsu cả nửa thế kỷ, trước đó từng gặp nhiều lần, Ryoshun là võ quan về hưu, là cư sĩ Phật Giáo và là một nhà thơ nổi tiếng. Shotetsu về sau kể lại, rằng khi được 14 tuổi thì được Ryoshun dạy về thi pháp và cấu trúc thơ, được giới thiệu để tham dự các buổi họp thơ tại nhà một quan chức dân sự.

Shotetsu học về thể loại thơ cung đình với Ryoshun, và các lĩnh vực văn chương khác, kể cả truyền thống văn học Thần Đạo. Từ đó Shotetsu làm quen với nhiều nhà thơ ảnh hưởng trong thời kỳ đó. Năm 1406, Shotetsu rời bậc thầy thi ca để vào tu trong một thiền viện dòng Lâm Tế ở Kyoto có tên là Tu viện Tofuku-ji; nơi này, cũng là nơi Ryoshun từng vào tu học nhiều thập niên trước. Sau khi có tin vị thầy thơ Ryoshun từ trần (có thể là 1417 hay 1420), Shotetsu làm một số chuyến đi hành hương xa khỏi Kyoto để thăm những nơi nổi tiếng trong thơ cổ Nhật Bản. Khi về lại Kyoto, nhà sư Shotetsu toàn tâm toàn lực bước vào không gian thơ Kyoto, biến sự nghiệp đời ông thành một ngọn núi thi ca.

Năm 1424, Shotetsu rời tất cả tự viện, về dựng một ngôi lều ở ngoại ô Kyoto, sống như một nhà thơ chuyên nghiệp, được vây quanh bởi nhiều người bảo trợ và môn đệ, và thường được mời dự các buổi đọc thơ trong các gia đình quý tộc – có lúc được mời vào đọc thơ trong cung điện Tướng quân Ashikaga.

Tuy nhiên, cõi này vô thường. Chuyện xảy ra vào giữa ngày thứ nhì và thứ ba trong tháng thứ tư của năm 1432, Shotetsu kể lại: “Vào đêm thứ nhì, tôi ở lại dinh của Trưởng Quan Nội Chính, và thức dậy để nghe báo tin rằng chiếc lều của tôi, ngôi lều Imakumano, đã bốc cháy trong đêm. Không gì cứu vãn được. Toàn bộ các bài thơ tôi làm từ tuổi hai mươi, toàn bộ 27,000 bài thơ, lưu giữ trong hơn 30 thi tập, trở thành khói bụi, không một bài thơ nào còn. Cùng với tro bụi đó, là tất cả những cuốn sách, và cả những văn liệu tôi đã chép tay làm phó bản.”

Lúc đó Shotetsu 51 tuổi. Tướng quân Ashikaga Yoshimochi từ trần năm 1428, người em trai là Ashikaga Yoshinori (1394-1441) lên thế ngôi. Từ từ tình cảm nhạt dần. Các sách về cuộc đời Shotetsu kể rằng Yoshinori không có thiện cảm với nhà sư Shotetsu, và có một lúc ra lệnh đưa Shotetsu quản chế tại gia. Về tài chánh, tiền Shotetsu thừa kế từ gia tộc cũng bị tịch thu. Về văn học, tuyển tập thơ cung đình lúc đó được kết tập và biên tập bởi Asukai loại Shotetsu ra ngoài – Tuyển tập có tên Shinshokukokin Wakashū ("New Collection of Ancient and Modern Times Continued" – Tân Tuyển Thơ Cổ và Hiện Đại) có nghĩa là xóa tên nhà thơ Shotetsu ra khỏi thi ca thời trung cổ phong kiến này.

Từ đó, Shotetsu sống ẩn dật, ít tiếp xúc, sáng tác thơ cũng ít hơn. Năm 1441, sau khi Tướng quân Yoshinori bị một trong các tướng thân cận ám sát, nhà sư Shotetsu được mởi trở lại không gian văn học của các gia tộc quan chức mới. Shotetsu từng được giữ chức dạy kèm cho tân Tướng quân Ashikaga Yoshimasa (1435-1490), và được cho hưởng lại tiền thừa kế tập truyền từ người cha quá cố. Nhưng sức khỏe nhà sư Shotetsu suy yếu dần. Sau ba năm bệnh dai dẳng, Shotetsu từ trần năm 1459, hưởng thọ 79 tuổi. Học giả Steven D. Carter từng viết rằng, nếu toàn bộ thơ của Shotetsu còn ghi lại được, có lẽ hơn 31,000 bài thơ. Con số chính xác không thể nào biết được, nhưng hiển nhiên thơ Shotetsu đã đặt nền móng cho đời sau phát triển thành thể thơ haiku. Sau đây sẽ dịch một số bài thơ của Shotetsu.

Bài thơ sau gợi ý về Kinh Phật, khi nói về một con trâu, xuất hiện trong bóng đêm, từ từ bước ra, nhà thơ nhìn thấy trâu nhưng không thấy có “ai” – nói theo Mười Bước Chăn Trâu của Thiền Tông, trâu là hiển tướng của tâm, nhưng chỉ có cái được thấy là trâu (tâm) nhưng không hề có ai hay tự ngã nào thấy. Trong cái thấy của tâm này, trâu (tâm) “bước theo bước chân tôi” nhưng “không hề có ai” trước mắt. Đó là cái thấy của giải thoát, không phải Nam Tông hay Bắc Tông, không phải Thiền Tông hay Tịnh Độ, không phải Nhật, Việt, Hoa, Hàn… Đó là cái thấy “không ai” trước mắt. Bài thơ này được dịch giả Steven D. Carter xếp vào nhóm thơ yūgen ("huyền diệu và thâm sâu"):

Một gia súc, mùa xuân
Khoảng tối của đêm
một con trâu
bước ra trên cánh đồng
theo bước chân tôi
và dọc theo
đường lộ mờ sương
Tôi thấy
không một ai.

.
Một bài thơ khác của Shotetsu gợi nhớ tới Đức Phật dạy trong Kinh Kim Cang, rằng hãy giữ tâm không chỗ trụ, rằng đừng luu luyến gì quá khứ, đừng mơ tưởng gì tương lai và chớ nắm giữ gì nơi hiện tại. Bài thơ nghe như lời khuyên vì nhan đề là Tình yêu đã quên. Điều nên ghi là, trong tiểu sử của Shotetsu không thấy hình bóng phụ nữ nào. Phải chăng “tình yêu” nơi đây là “tình yêu thi ca” hay tất cả những cảm thọ trong cõi này?

Tình yêu đã quên
Tôi đã quên
trong khi cứ mãi quên
để tự nhắc mình
rằng những ai đã nguyện sẽ quên
là những người không thể quên.

Nhà sư nơi đây tự nhận sống theo hạnh không nhà, hạnh vô gia cư, chấp nhận đón nhận tất cả những gian nan của các trận gió đời. Tuy nhiên, bài thơ sau được đặt nhan đề là “Seeking Love” (Tìm yêu thương). Phải chăng nên dịch rằng người vô gia cư này đang tìm “ngôi nhà của yêu thương, của từ bi”? Phải chăng bài này làm trong thời kỳ sống hạnh du tăng, hành hương? Bản dịch như sau.

Tìm yêu thương
Với những gian nan
thổi tới tôi
những trận gió núi
từ sâu thẳm
tận trong tim
của người không
tìm nơi cư trú nào.

Trong khi đó, hình ảnh trong bài thơ sau lại rất quen thuộc với nhà Thiền. Mặt trăng tượng trưng cho chân lý, được ngón tay chỉ lên để nhìn. Trong bầu trời rỗng không. Nhưng không ai bận tâm. Bài thơ như sau.

“Hãy nhìn lên”
có người nói thế
chỉ ngón tay vào
bầu trời rỗng không
nhưng không ai bận tâm
chịu nhìn vào mặt trăng.

Kinh Phật nói rằng có nhiều vị cổ Phật. Bài thơ sau đây của Shotetsu có nhan đề “Phật đạo” nói rằng ngay cả các ngọn núi, tất cả đều tự thân mang hình tướng vị Phật đầu tiên và Phật pháp vẫn không ngừng tuyên thuyết trên các ngọn gió bão. Bài thơ như sau.

Phật đạo
ngay cả những ngọn núi
tất cả đều tự thân
là hình tướng
của
vị Phật đầu tiên.
Và không ngừng nghỉ
giáo pháp
được tuyên thuyết
từ các trận gió bão.

Một bài thơ nói về tiếng chim cu gáy. Có thể là nhà sư Shotetsu muốn nhắc tới luật vô thường, vì nói rằng tiếng gáy qua đi, không tìm lại được. Cũng có thể nhà sư muốn nhắc hãy tỉnh thức, lắng nghe cái bên kia chữ viết, bên kia lời nói. Bài thơ như sau.

Tiếng kêu từ một chim cu
như dường nói
sự thật để thấy rằng
càng nhiều lời
càng kém giá trị
chim cu không kêu lại nữa.

Một bài thơ nhan đề “Hồi tưởng” (Reminiscing) cũng nhắc lời Kinh Phật rằng tất cả những hình ảnh của quá khứ chẳng nên nắm giữ, hãy để cho gió từ rặng thông thổi bay cho hết những giấc mơ chưa quên. Bài thơ như sau.

Hồi tưởng
Tất cả những hình ảnh này
từ một thế giới
của những xa xưa
có lợi gì đâu
Gió rừng thông ơi
hãy tới thổi tan đi
những giấc mơ chưa quên.

Tương tự, một bài thơ nhà sư Shotetsu đọc trong buổi họp thơ tại nhà một quan chức cao cấp trong triều đình, được ghi là hội thơ ngày 24 tháng 8/1447. Bài thơ nói về gặp hay không gặp Đức Phật ngay nơi hiện tiền, không ở quá khứ hay tương lai.

Và những gì
hơn lúc này
tôi có từng bao giờ thở than:
rằng tôi phải sống
hiện tiền bây giờ
khi tôi có thể không gặp Phật --
không của quá khứ,
không của tương lai.

Người dân Nhật Bản thờ rất nhiều vị thần. Các ngôi đền Thần Đạo còn nhiều hơn các ngôi chùa Phật Giáo. Cả hai tôn giáo này đều đã quyện sâu vào văn hóa Nhật Bản. Tuy nhiên, Shotetsu có một bài thơ, nói rằng các vị thần chỉ là phóng ảnh từ chính chúng ta. Trong kinh luận Phật Giáo, thần có thể hiểu là cõi chư thiên. Trong Thiền Tông, với cái nhìn thấu suốt tự tánh của các pháp sẽ thấy chính là vô tự tánh, là rỗng rang Không Tánh; do vậy, các thiền sư mới nói “Phùng Phật sát Phật” (Hễ còn thấy Phật thì dẹp bỏ hình tướng Phật đó đi). Bài thơ sau, Shotetsu nói về Các Vị Thần.

Các vị thần
ngoài chúng ta
ra
không có
vị thần nào khác.
Với chính các vị thần
hãy biết rằng
chính trong tâm người
các vị thần mới được tìm thấy.

Bài thơ sau nói về những hồi chuông chùa bay trên sông, tan dần và từ từ rơi trên tay áo nhà sư, trở thành thủ đô. Lúc đó Kyoto là thủ đô Nhật Bản trong hơn 1,000 năm (từ năm 794 tới 1868). Bài thơ nhan đề “Chuông Từ Bi” (“Love—Bell”) ghi lại cảm xúc của Shotetsu. Nhà thơ dùng chữ “rơi trên tay áo” (falling onto my sleeves) chứ không phải “bay vào trong tay áo”… Nghĩa là, lúc đó, tay áo phất phơ theo từng hồi chuông bay tới. Và các hồi chuông vô hình đó trở thành thủ đô.

Chuông từ bi
Tôi lắng nghe
các hồi chuông
bay trên sông Hatsu
tan dần
từng hồi chuông một
rơi trên tay áo của tôi
trở thành
thủ đô.

Một bài thơ của Shotetsu ghi về bản thân, khi lắng nghe tịch lặng của tâm, mặt trăng trí tuệ mới hiện lên. Nhưng khi quay lại nhìn, thì thấy mây hiện lên (vì còn vướng thấy có ai nhìn). Bài thơ này Shotetsu viết tại một ngôi nhà ở Yokawa vào ngày rằm tháng 4 năm 1442, trong khi đi bộ hành hương ở Núi Hiei, phía đông bắc Kyoto.

Từ nơi tịch lặng
nơi tự tâm tôi
hiện lên
mặt trăng mọc
và khi quay lại nhìn ---
mặt trăng
trong các chùm mây.

Một bài thơ nhan đề “Qua như một giấc mơ” (“Passing Like a Dream”) làm tại ngôi chùa Myoei-ji vào năm 1457, nhà sư Shotetsu viết rằng giấc mơ trong khi ngủ sẽ tan khi thức dậy, nhưng giấc mơ trong khi thức thì cứ buộc người hoài thôi.

Những gì nhìn thấy
trong giấc ngủ
sẽ biến mất
khi thức dậy,
nhưng giấc mơ
trong khi thức
giấc ngủ sẽ không
làm quên nổi.

Nhà thơ Shotetsu ví thân như cỗ xe, khi tuổi già tới, xe ngừng lại, như muốn sụp đổ, nhưng chặng đường  từ bi của sư vẫn không ngừng. Bài thơ viết như sau.

Cỗ xe xưa cũ rồi
càng xe gần như sụp ngã
dừng lại tạm nghỉ --
hao mòn từ du hành xa
trên chặng đường từ bi.

Trong tận cùng, chúng ta có thể suy đoán rằng nhà sư Shotetsu đã mượn thơ để hoằng pháp. Nếu không làm thơ, nhà sư không thể tiếp cận với giới thượng lưu. Những bài thơ ngắn phù hợp với những buổi họp thơ thời xưa cổ, khi giấy, mực và bút còn là hiếm hoi. Thơ ngắn dễ làm người nghe ghi nhớ, khi bước về nhà. Shotetsu là mảng lịch sử hy hữu của Nhật Bản – dù là nhìn như một nhà sư, hay một nhà thơ.

Nguyên Giác

.

PHOTO:
Hình 1:
20210315-1 seigan shotetsu_portrait painting
Nhà sư Seigan Shōtetsu, do Sakai Hōitsu (1761-1829) vẽ, mực trên giấy.
Hình 2:
20210315-2 portrait of shotetsu_2
Seigan Shōtetsu, do Teikoku Jinmei Jiten vẽ, năm 1629.
Hình 3 và 4:
20210315-3 chua Nhat Kyoto_2019_shot by PTH20210315-4 chuong chua Nhat 2019_shot by PTH
Tháp chuông chùa Nhật tại Kyoto, ảnh chụp năm 2019.
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/12/2021(Xem: 6834)
Cư sĩ Salim Wijaya và Cư sĩ Julie Suwanto, những Phật tử Indonesia tài năng đang làm việc tại Công ty Signa Philippines, đã chính thức làm lễ Hằng thuận (kết hôn) tại Phật Quang Sơn Vạn Niên Tự, 656 Ocampo St, Malate, Manila, 1004 Metro Manila, Philippines vào ngày 23 tháng 12 vừa qua. Hai họ đã thành tâm cung thỉnh trụ trì Vạn Niên Tự Pháp sư Diệu Tịnh chứng minh hôn lễ, chúc phúc cát tường.
30/12/2021(Xem: 4431)
Kính dâng lòng thành kính tri ân đến những vị Giảng Sư đã từng biên chép, phiên dịch, thuyết giảng về bài Kinh Niêm Xứ (bài thứ 10 trong Trung Bộ Kinh) đã được Đức Thế Tôn một lần duy nhất thuyết giảng tại đô thị Kamassadhamma của xứ Kuru (1) và sau đó một nửa người dân xứ này đã đạt quả Bất Lai và một nửa còn lại khi vãng sanh đều được về Bắc Câu Lô Châu để thọ hưởng sự an vui tịnh lạc với tuổi tho 1000. Đặc biệt kính đảnh lễ Giảng Sư Pasado Sán Nhiên với kinh nghiệm từ bộ thứ bảy về Phát Thú trong Kinh Vô Tỷ Pháp (Abhidhamma) đã truyền trao tất cả tâm huyết khi thuyết giảng Kinh Niệm Xứ thật thâm diệu trong 7 video dài 18 giờ đồng hồ....Và TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng đã trao chìa khóa vàng “Trong cái thấy nghe chỉ là cái thấy nghe với sát na đầu tiên “ làm duyên giúp con tìm lại những đam mê và hứng thú khi nghiên cứu lại những bài kinh nguyên thủy căn bản mà nhiều năm qua con cho là khó quá và đầu hàng
28/12/2021(Xem: 6153)
Kể từ khi nhập học trường mầm non mẫu giáo Phật Quang Sơn Tuệ Từ vào ngày 4 tháng 11 vừa qua, vườn rau công nghệ khoa học Thái Viên do Tổng hội Hoa kiều Quốc tế Phật Quang sơn cung cấp, đây là tạo ra một thử thách bởi cơn sóng gió nhỏ trong cuộc đời những đứa trẻ, các nhi đồng hồn nhiên vui tươi và cẩn thận khi gieo những hạt mầm non, hãy mong cho những hạt mầm non chóng lớn và liên tục quan sát chúng từng ngày, cho đến ngày 7 tháng 12, kết quả được chia sẻ, để việc học của các nhi đồng thêm những yếu tố và sức sống mới trong học tập.
22/12/2021(Xem: 7309)
Phật khi còn tại thế gian Thường ngày đi khắp xóm làng nơi nơi Với hàng đệ tử của ngài Để cùng khất thực với người thiện tâm Giúp cho người gieo hạt mầm Vào trong ruộng phước vô ngần tốt tươi.
22/12/2021(Xem: 7242)
Kinh thành Xá Vệ sáng nay Phố phường nhộn nhịp đông đầy người đi Ngược xuôi tấp nập ngựa xe Toàn người quý phái muốn khoe sang giàu, Áo quần sặc sỡ đủ màu Cửa hàng khách khứa đua nhau ra vào
16/12/2021(Xem: 6525)
Nhận được sự quan tâm giúp đỡ đồng bào Phú Yên của chư Tôn Đức & Phật tử hải ngoại, tuần lễ vừa qua Hội từ thiện Trái Tim Bồ Đề Đạo Tràng chúng con, chúng tôi đã thực hiện một đợt phát quà cho 120 hộ bà con lao động nghèo trong hoàn cảnh khó khăn do bão lụ gây ra. Buổi phát quà đã được Ni Sư Thích nữ Bổn Tánh tại Phú Yên phụ trách. Mỗi phần qua trị giá 300 ngàn + phong bì 200 ngàn VND. Kính mời quí vị hảo tâm xem qua vài hình ảnh phát quà do Ni Sư Bổn Tánh cung cấp :
15/12/2021(Xem: 5872)
Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Sẻ chia trong lúc hoạn nạn, khó khăn, mãi là điều quý giá nhất trên đời, vào đầu tuần này, Monday (13 Dec 2021) chúng con, chúng tôi đã tiếp tục lên đường cứu trợ thực phẩm cho dân nghèo xứ Phật trong hoàn cảnh thiếu thốn triền miên bởi ảnh hưởng nền kinh tế suy thoái do Đại dịch gây nên .. Buổi phát chẩn đã thực hiện cho 346 hộ tại 2 ngôi làng Chandigard Village and Sumant Raj Village cách Bồ Đề Đạo Tràng chừng 23 cây số. Thành phần quà tặng cho mỗi hộ gồm có: 10 ký Gạo và bột Chapati, 1 bộ áo Sari, 2 ký đường, dầu ăn, muối, bánh ngọt cho trẻ em và 100Rupees tiền mặt (Mỗi phần quà trị giá: 14usd.45cents x 346 hộ = ... (Bên cạnh đó là những phần phụ phí như mướn xe chở hàng, tiền công đóng gói và công thợ khuân vác, tiền quà cho những người sắp xếp trật tự tại nơi phát chẩn). Xin mời quí vị hảo tâm xem qua một vài hình ảnh tường trình..
14/12/2021(Xem: 6114)
Tiến sĩ Sneha Rooh, một nhà nghiên cứu y khoa, bác sĩ chăm sóc giảm nhẹ cho bệnh nhân đến từ Hyderabad, một thành phố ở phía nam Ấn Độ. Cô đã và đang phát triển một chương trình chăm sóc giảm nhẹ cho bệnh nhân, hướng dẫn các vị tu sĩ Phật giáo cách chăm sóc người bệnh nhân đang hấp hối, cận tử nghiệp và bệnh nan y.
14/12/2021(Xem: 4751)
Chúng ta đang sống trong một thế giới giảm dần. Chúng ta đang sống trên một tấm lụa, một màn hình máy chiếu. Vấn đề tâm linh duy nhất, hành trình tâm linh của chúng ta là trải nghiệm, và xác định những bức tranh sơn dầu thời xưa đều sử dụng vải canvas căng trên khung gỗ rồi sáng tạo hình vẽ, cho dù đó là hình ảnh địa ngục khổ đau hay thiên đường tươi đẹp an lạc hạnh phúc.
11/12/2021(Xem: 4981)
Mae Chee Sansanee Sthirasuta là một nữ tu sĩ nổi tiếng ở Thái Lan, người đã sáng lập Trung tâm thiền Phật giáo Phật Sathira Dammasathan tọa lạc ở ngoại ô Bangkok vừa viên tịch vào lúc 8 giờ hôm thứ Ba, ngày 7 tháng 12 năm 2021 (4/11/Tân Sửu). Sư nữ Mae Chee Sansanee Sthirasuta, người nổi tiếng ở Vương quốc Phật giáo Thái Lan, người sáng lập Trung tâm thiền Phật giáo Sathira Dammasathan tọa lạc ngoại ô thủ đô Bangkok. Nơi đây thường xuyên tổ chức các chương trình tu học dành cho mọi đối tượng, lứa tuổi, v.v nhằm nỗ lực vì hòa bình, phá vỡ chu kỳ bạo lực và phân biệt đối xử trong cộng đồng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]