Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mục Điểm Sách: Nhận thức quán – Mười Liệu Pháp Chánh Niệm

11/03/202107:54(Xem: 4905)
Mục Điểm Sách: Nhận thức quán – Mười Liệu Pháp Chánh Niệm
Mục Điểm Sách: Nhận thức quán – Mười Liệu Pháp Chánh Niệm
Tác Giả: Hòa Thượng Henepola Gunaratana
 Thích Thanh An dịch từ Anh Văn ra Việt văn

 meditation-on-perception

Cách nay chừng vài tuần lễ tôi nhận được một phong thư dày gửi đi từ Thầy Thanh An ở Tích Lan, trong đó có quyển sách trên. Sách do nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành năm 2020, in loại bìa cứng mạ vàng rất trang nhã. Tất cả có 180 trang chữ nhỏ.

 

Tác giả là một vị Hòa Thượng người Tích Lan đã ở Hoa Kỳ lâu năm, và dĩ nhiên là Hòa Thượng Gunaratana đã dịch và tham cứu từ bản tiếng Pali, vốn là những Kinh điển gốc của Phật Giáo Nam Truyền và Ngài đã viết cũng như bình chú bản kinh nầy bằng tiếng Anh nhan đề là: Meditation on Perception-Ten Healing Practices to Cultivate Mindfulness. Thầy Thanh An là một nghiên cứu sinh về Phật Giáo ở bậc Tiến Sĩ tại Đại Học Kelaniya, Tích Lan. Thầy Thanh An cho biết đây là tác phẩm đầu tay của Thầy ấy dịch từ Anh Văn ra Việt Văn.

 

Đi vào mục lục của sách, chúng ta thấy có 3 phần chính ở giữa sách và 2 phần phụ ở đầu và cuối sách. Phần đầu là lời tựa, lời giới thiệu của Hòa Thượng Bodhi là một học giả Phật giáo, người Hoa Kỳ tu theo truyền thống Nam Tông rất rành về ngôn ngữ Pali; kế tiếp là lời tri ân của Hòa Thượng Henepola Gunaratana, lời giới thiệu và bắt đầu hướng dẫn về Thiền tập.

 

Phần I: Sự nhận thức về việc quán các uẩn, nhận thức về nhiễm ô, nhận thức về sự thanh tịnh. Phần II mới là phần chính của sách. Đó là 10 liệu pháp nhận thức gồm: Tưởng về vô thường, tưởng về vô ngã, tưởng về bất tịnh, tưởng về sự nguy hại, tưởng về sự xả ly, tưởng về vô dục, tưởng về đoạn diệt, tưởng về sự không dính mắc đối với thế gian, tưởng về hữu vi hoại và tưởng về hơi thở chánh niệm. Kế tiếp Tác giả còn giải thích thêm về sự nhận thức thanh tịnh của hơi thở thanh tịnh gồm có: Bốn nền tảng của chánh niệm như: chánh niệm trên thân, trên thọ, trên tâm và trên pháp. Phần III Tác giả đã viết về nhận thức quán như: Quán vô thường và sáu trần; quán tâm biến chuyển; Thiền là chìa khóa của sự giải thoát; quán duyên khởi; thấy vô thường bằng tuệ tỉnh thức và giải thoát.

 

Phần Phụ lục của bản kinh nầy có những ngôn ngữ như tiếng Devanagari; kinh bản chữ Hán và Kinh Girimānanda đã được dịch ra Việt ngữ từ Tam tạng Thánh điển Pāli Text Society ấn hành năm 1881, bản Anh ngữ có tham chiếu Pāli. Đây là một bản kinh rất quý cũng có thể nói là hiếm nữa, vì lẽ lâu nay có nhiều người đã đọc hay hành trì qua các bản kinh chữ Hán Việt, nhưng ngay cả chữ Hán cũng có nhiều bản khác nhau. Nay có Tác giả là người Tích Lan, dùng tiếng Pali làm gốc và dùng Anh ngữ để chuyển tải, rồi được dịch sang Việt ngữ, là một điều quý giá vô cùng.

 

Nội dung của Kinh Girimānanda được viết trong Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) 10:60 thuộc Kinh Tạng Pāli và phần Hán Văn thuộc bộ Nam Truyền Đại Tạng (cuốn 24) như sau: Một thời Đức Phật ở tại Savathi (nước Xá Vệ), Thầy Girimānanda đã chịu đau khổ nhiều về bệnh tật đang hoành hành. Tôn giả A Nan đến thưa thỉnh Đức Phật và mong Đức Phật đến thăm Thầy Girimānanda vì lòng thương tưởng của Ngài A Nan đối với nỗi đau của Thầy ấy. Nhưng Đức Thế Tôn dạy Ngài A Nan rằng: A Nan nên đến thăm và mang 10 sự nhận thức nói cho Thầy ấy nghe. Đức Phật cũng nói rằng: “Có thể, sau khi được nghe về mười nhận thức thì Thầy Girimànanda sẽ lập tức chữa lành bệnh tật của mình”. Đúng như vậy, sau khi A Nan tuyên thuyết 10 liệu pháp chánh niệm nầy thì Thầy Girimànanda đã khỏi bịnh.

 

Trong quyển “Nghiên cứu giáo đoàn Phật giáo thời nguyên thủy” của Giáo sư Tiến sĩ Sato Mitsuo viết bằng tiếng Nhật, và năm 1990, 1991&1992 tôi đã dịch sang Việt Ngữ, Thầy Hạnh Tấn đã dịch sang Đức ngữ, cũng có trình bày về cách chữa trị bệnh của Đức Phật cho chư Tăng qua pháp tứ y. Đó là: Mỗi ngày chỉ ăn một bữa bằng cách đi khất thực, ăn xong ngủ dưới gốc cây, sống với ba y và một bình bát, cũng như nếu bịnh thì dùng thuốc trần bà. Dĩ nhiên là có nhiều cách chữa trị bệnh bằng cách thiền định hay qua Kinh Thập Niệm của Nam Truyền như: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thí, niệm Giới, niệm Thiên, niệm An ban (Anapasati-quán niệm về hơi thở), niệm Hưu tức(Niết Bàn), niệm về Thân vô thường và niệm về sự Chết. Trong 10 niệm nầy hành giả cũng phải quán tưởng hơi thở vào ra để làm chủ, và chánh niệm vẫn là vấn đề sanh tử của những hành giả khi tu tập phép quán nầy, dẫu cho là Nam hay Bắc truyền.

 

Đi tra cứu thêm trên các trang nhà thì chúng tôi thấy vào ngày 8 tháng 10 năm 2015, dịch giả Toại Khanh đã cho đăng bài dịch ra Việt Văn lẫn Hán Việt trên trang nhà thuvienhoasen.org đã có 6.149 người vào xem ở vào thời điểm của tháng 3 năm 2021. Với tiêu đề là: Kinh Kỳ Lợi Ma Nan, nhưng khi tra vào bản Hán Văn của Thầy Thanh An (trang 168), phần tưởng về vô ngã thì khác nhau rất nhiều.

 

Tôi tạm dịch từ bản của Thầy Thanh An ra âm Hán Việt như sau: A Nan! Hà đẳng vi vô ngã tưởng da?

A Nan! Thử xứ hữu Tỳ Kheo, vãng A Luyện Nhã, vãng thọ hạ, vãng không ốc nhi tư trạch: “Nhãn thị vô ngã, sắc thị vô ngã, nhĩ thị vô ngã, thinh thị vô ngã, tỉ thị vô ngã, hương thị vô ngã, thiệt thị vô ngã, vị thị vô ngã, thân thị vô ngã, sở xúc thị vô ngã, ý thị vô ngã, pháp thị vô ngã”. Như thị ư thử nội ngoại chi lục xứ quán vô ngã nhi trụ. A Nan! Thử danh vi vô ngã tưởng.

 

Trong khi đó bản của Toại Khanh đăng trên Thư Viện Hoa Sen dịch phần âm Hán Việt như sau:

A Nan, hà đẳng vi vô ngã tưởng da?

A Nan thử xứ hữu Tỳ Kheo vãng A-lan-nhã, vãng thọ hạ, vãng không ốc nhi tư trạch: “Sắc thị vô ngã, thọ thị vô ngã, tưởng thị vô ngã, hành thị vô ngã, thức thị vô ngã. Như thị ư ngũ thủ uẩn quán vô ngã nhi trú. A Nan! Thử danh vi vô ngã tưởng.

 

Nếu xem kỹ thì phần trên có 10 cách quán. Nếu nói về nhãn thì có sắc, nhĩ thì có thinh, tỉ thì có hương, thiệt thì có vị, thân thì có xúc; ý thì có pháp. Còn đoạn văn Hán Việt phía dưới chỉ nói quán về năm thủ uẩn của sắc, thọ, tưởng, hành và thức mà thôi.

 

Phần Việt dịch của Thầy Thanh An trong sách nầy ở trang 174 như sau:

Và nầy A Nan, cái gì là sự nhận thức về vô ngã? Ở đây, vị ấy đi vào rừng sâu, đến bên dưới gốc cây hoặc bãi đất trống, vị ấy ngồi ngay thẳng quán chiếu như sau: Mắt là vô ngã, sắc nầy là vô ngã, tai nầy là vô ngã, âm thanh nầy cũng là vô ngã, mũi nầy cũng là vô ngã, mùi vị nầy cũng là vô ngã, lưỡi nầy là vô ngã, vị nầy cũng vô ngã, thân thể nầy là vô ngã, đối tượng của xúc cũng là vô ngã, tâm nầy cũng thế, là vô ngã, các tâm sở cũng thế, tất thảy đều vô ngã”. Do đó, vị ấy an trụ nơi sự quán chiếu vô ngã trong sáu đối tượng căn và cảnh. Đây là sự nhận thức về vô ngã.

 

Dịch như vậy cũng đã thoát ý đoạn Hán văn bên trên, không ngoài 10 cách quán về vô ngã và câu tiếng Việt lại rõ ràng trong sáng hơn.

 

Sách không thấy đề giá phát hành, nhưng có mã số sách tiêu chuẩn quốc tế (ISBN) 978-604-302-875-1. Quý vị cũng có thể liên lạc qua Thư quán Hương Tích, website: huongtichphatviet.com.

 

Mong rằng quý độc giả sẽ đọc được một tác phẩm hay mà lâu nay chưa có cơ duyên đọc đến.

 

Thích Như Điển - Viết xong vào lúc 17:30 ngày 9 tháng 3 năm 2021 tại thư phòng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/10/2020(Xem: 5194)
Tổ chức Từ thiện Tây Tạng được thành lập tại Đan Mạch vào năm 1997, do Tôn giả Lakha, vị Lạt Ma, Triết gia, sáng lập và Chủ tịch Tổ chức Từ thiện Tây Tạng, người lãnh đạo tinh thần của khoảng 100.000 người Tây Tạng ở Batang, Đông Tây Tạng. Cư sĩ Tsering Thundup, cựu Hiệu trưởng Trường nội trú Tây Tạng ở Bắc Ấn Độ, phụ trách các hoạt động tổ chức phi chính phủ ở Dharamshala, Ấn Độ.
18/10/2020(Xem: 7773)
Các lời trích dẫn giáo lý của Đức Phật cùng các danh nhân khác thường thấy trên mạng, báo chí và tạp chí đủ loại tại các nước Tây phương. Dường như trong cuộc sống dồn dập tại các nơi này, một số người đôi khi cũng thích đọc một vài câu ngắn gọn nhưng sâu sắc, giúp mình suy nghĩ về xã hội, con người và sự sống nói chung.
17/10/2020(Xem: 6408)
-Tùy hỷ là vui theo, Tâm tùy hỷ là tâm tốt, tâm tốt thường thấy những điều chung quanh đều tốt, vì “người vui cảnh chẳng đeo sầu”, khi thấy người khác có cái gì tốt, cái gì đẹp, hiền lành được an ổn, hạnh phúc, thành đạt thì mình vui theo, như chính mình được và thấy họ làm điều phước thiện, đạo đức mình cố công giúp đỡ khiến họ được thành tựu. Vui cái vui của người, mừng thấy cái tốt của người sẽ là một sự thông hiểu, tạo được không khí an lành đầy chân thành hòa đồng trong tâm niệm hạnh phúc. Lúc đó tâm ta sẽ thấy an vui, nhẹ nhõm, thanh thoát cõi lòng, sống trong hiện tại rất là thư thái, ý nghĩa, nhiều lợi ích và được nhiều người thương yêu tôn kính và yểm trợ, tương lai chắc chắn sẽ hưởng được nhiều điều may mắn và tràn đầy phước đức.
17/10/2020(Xem: 8198)
Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Mấy hôm nay vì lo vận động giúp đỡ đồng bào thiên tai bão lụt Miền Trung nên chúng con, chúng tôi chậm trễ việc tường trình các thiện sự trên xứ Phật, mong chư vị cảm thông và hoan hỉ. - Trong tuần qua, chúng con chúng tôi đã thực hiện một buổi phát chẩn tại 2 ngôi Làng Kusa & Niranjan Village. Làng Kusa chính là ngôi làng có ngôi đền Kusa Temple, đánh dấu nơi mà ngàn xư Thế Tôn đã thọ nhận 8 bó cỏ của người nông phu, rồi từ địa đó Ngài đã mang cỏ về trải làm toạ cụ dưới Cội Bồ Đề và tu hành chứng Đạo. Hiện nay dân chúng nơi đây nói riêng và nhiều nơi trên xứ Ấn nói chung vẫn khổ sở vì Dịch Covid còn kéo dài lê thê, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nên kinh tế của xứ nay`
17/10/2020(Xem: 5718)
Vào ngày 11 tháng 10 năm 2020, Cộng đồng sắc tộc Rakhine tại Bangladesh (RCB), một tổ chức của người dân tộc thiểu số Rakhine đang sống tại Bangladesh, đã thành lập một chuỗi người và biểu tình trước Bảo tàng Quốc gia ở Dhaka, miền trung Bangladesh, để lên án tất cả các hành vi tra tấn dã man, cướp bóc, giết người và vi phạm nhân quyền do bạo lực quân sự của Myanmar gây nên. Cư sĩ Kyawo Nyin Rakhine, người tổ chức biểu tình, cho biết đây là lần đầu tiên một cuộc biểu tình được tổ chức bởi cộng đồng, chủ yếu là các Phật tử Rankhine ở Dhaka.
16/10/2020(Xem: 6349)
Trong cuộc phỏng vấn với UNESCO Courier, Thiền giả Yuval Noah Harari (liên kết bên ngoài), một nhà sử học người Israel và là giáo sư Khoa Lịch sử tại Đại học Hebrew Jerusalem. Ông là tác giả của các cuốn sách bán chạy thế giới Sapiens: Lược sử loài người (2014), Homo Deus: Lược sử tương lai (2016) và 21 bài học cho thế kỷ 21 (2018). Bài viết của ông xoay quanh ý chí tự do, ý thức và trí thông minh và hạnh phúc, ông đã phân tích những hậu quả của cuộc khủng hoảng y tế do đại dịch Virus corona gây ra hiện nay có thể là gì, và nhấn mạnh sự cần thiết của việc hợp tác khoa học quốc tế và chi sẻ thông tin giữa các quốc gia.
16/10/2020(Xem: 6336)
Ma là một khái niệm mơ hồ, có người tin và có người không tin, tuy nhiên luôn là đề tài hấp dẫn đối với phụ nữ mặc dù các bà rất sợ ma nhưng lại thích nghe chuyện ma. Từ xưa đến giờ chưa ai thấy hình dáng, hình tượng con ma ra sao, thế nhưng trong tưởng tượng, mọi người phác họa ra những con ma vô cùng đa dạng, độc đáo.
15/10/2020(Xem: 5644)
Khi Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục lạm dụng người Duy Ngô Nhĩ, người Tây Tạng và những người khác, Hoa Kỳ phải tiếp tục dẫn đầu trong việc duy trì tự do tôn giáo. Về vấn đề tôn giáo tại Trung Quốc, Bắc Kinh đã nói rõ một điều hoàn toàn không rõ ràng: “Không có nhóm tôn giáo nào nằm ngoài tầm kiểm soát của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ)”.
15/10/2020(Xem: 6695)
Cư sĩ Stephen Batchelor, một nhà văn Phật giáo đương đại, nổi tiếng với cách tiếp cận thế tục hay bất khả tư nghì đối với Phật giáo. Cư sĩ Stephen Batchelor coi Phật giáo là một nền văn hóa không ngừng phát triển của sự giác ngộ hơn là một hệ thống tôn giáo, dựa trên những giáo điều và niềm tin bất biến. Đặc biệt, ông tôn trọng các giáo lý về nghiệp báo và tái sinh để trở thành những đặc điểm của nền văn minh Ấn Độ cổ đại, và không nội tại đối với điều Đức Phật dạy.
15/10/2020(Xem: 6200)
Ngài Lạt Ma Phật giáo Nổi tiếng, Tôn giả Ngawang Tenzin Jangpo, Phương trượng Trụ trì Tu viện Tengboche (Tengboche Monastery) và được mệnh danh là “tiếng nói tâm linh của vùng Khumbu”, Nepal đã viên tịch tại quê hương Namche Bazaar, Huyện Solukhumbu của Tỉnh số 1 phía đông bắc Nepal. Trụ thế 85 xuân. Ngài được cung thỉnh ngôi vị Phương trượng Trụ trì Tu viện Tengboche từ năm 1956, nơi Ngài được nhiều thế hệ người Shepa biết đến, cũng như những người đi bộ và leo núi viếng thăm, những người đã nhận được sự chúc phúc cát tường từ Ngài khi họ đi qua Vườn Quốc gia Sagarmatha (Sagarmatha National Park) trong chuyến du hành. Ngài là một Tulku, được công nhận, hóa thân của Lạt Ma Gulu, người sáng lập Tu viện Tengboche.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]