Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lang Thang Miền Ký Ức Ngày Giáp Têt

07/02/202119:08(Xem: 8634)
Lang Thang Miền Ký Ức Ngày Giáp Têt
Bài  Xuân Tân Sửu 2021   
 
 Lang Thang Miền Ký Ức Ngày Giáp Têt

 Lang Thang Mien Ky Uc Ngay Giap Tet-Bàn thờ  Tổ Tien

                     Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.

                     Người xa xứ thì  chuẩn bị  trở về miền cố thổ để sum họp với gia đình, còn người  xứ xa  thì khắc khoải buồn thương, nhận cái tết  nơi  đất người  để tự an ủi mình trong những   ngày  xa biệt  đáng buồn nhất  trong một năm. Tình cảm đó, hay nói chinh xác hơn nghĩa tình đó chỉ có ở một nền phong tục, có trước có sau của dân tộc này mấy ngàn năm un đúc gầy dựng mới nên. Tất cả từ phong tục thiêng liêng nhất mà ra: Biết thờ cúng Tổ Tiên.

                     Là con dân đất Việt, là con cháu Hồng Lạc, ai cũng nhận ra điều vinh hạnh và rất đẹp tuyệt vời đó. Cho đến khi dấu chân tích trượng của các thiền sư Phật giáo, bước đến và in hằng trên mảnh đất này thì phong tục thờ cúng Tổ Tiên và những tập tục cao đẹp khác như được chắp thêm đôi cánh bay  xa giữa vòm trời thực dụng mà đôi khi tưởng  suýt mất hút  giữa bao cơn gió độc của ngoại lai xâm thực. Bởi vậy, mới càng thấm thía biết bao câu thơ của Huyền Không :

                  “Mái chùa che chở hồn dân tộc

                    Nếp sống muôn đời của Tổ Tông”

                     Khi mới vừa biết tìm hiểu Phật pháp, lòng nôn nóng và ngọn lửa nhiệt huyết của tuổi trẻ luôn sẵn hừng hực trong tâm, nhìn và nghe việc gì cũng bằng ngọn lửa ấy mà quên đi bên cạnh còn có ông bà, cha mẹ mình đang sống với mình, và trong nhả ngoài bàn thờ Phật trang trọng ra còn có bàn thờ gia tiên uy nghi ngự trị. Đó là những lực cản mang giá trị tinh thần vô hình, kìm hãm được nhiều nông nỗi của một thời tuổi trẻ hăng say mà anh em chúng tôi cứ nghỉ rằng mình làm như vậy là đúng. Nếu không thì những bàn thờ ông thiên, thần tài, thổ địa trong nhà đã được dẹp mất theo sự cưng chìu của gia đình rồi.  

                       Vậy đó, mà ngày nay, trước nhiều mối nguy họa đe dọa đến truyền thống dân tộc, mỗi khi có dịp đi đó dây, tùy theo vùng miền, ngồi trên xe nhìn ven đường thấy trước mỗi căn nhà dân không thấy bàn thờ ông thiên trong lòng lại dâng lên nhiều mối lo lắng và buồn phiền khôn nguôi! Vì sao vậy?

                       Nhờ đó mà lòng luôn trân quý, kính trọng biết bao thâm ân của chư liệt đại Tổ sư truyền thừa từ ngàn xưa, đã từng bước, từng thời, chắt chiu gầy dựng  nhiều  phương tiện để Phật pháp luôn  đồng hành cùng dân tộc, tạo nên cốt cách, truyền thống văn hóa văn tộc có nhiều đạo nghĩa uống nước nhớ nguồn này mà không thấy  các  quốc độ nào khác cũng có được.
Lang Thang Mien Ky Uc Ngay Giap Tet-phơi nhang 1( ảnh intarnet )

                        Trong những năm còn khó khăn chung, có những chiều giáp tết, một vài anh em chúng tôi vẫn còn lang thang giữa bao chặng đường cơm áo, lòng chỉ mong sao sẽ về kịp đến nhà vào đúng lúc giao thừa, để đưa hết tiền công lao động cực nhọc cho ba mẹ lo chi tiêu cho đàn em nheo nhóc, chưa hề nghĩ đến cho bản thân một điều gì dù đó là muống một ly nước mía ven đường hay gặm một khúc bánh mì nguội. Vậy mà trong lòng vẫn rạo rực mùa xuân phơi phới như bao người, vẫn tươi cười với một phong pháo tiêu chuẩn  mua được đem về cho gia đình.

                      Có những chiều cận tết, đi ngang nhiều xóm nhỏ miền Hậu Giang, thấy cả xóm phơi nhang vàng rực trước sân. Gia đình làm ít thì phơi nhang trên những dàn giá tre được thả khắp nơi chung quanh nhà có nắng đi qua; gia đình  làm nhiều thì phơi  dưới nền sân ngập nắng bằng từng  túm to được xoay tròn dựng đứng trông rất đẹp mắt như những chùm pháo  hoa tỏa rực. Có hỏi vì sao tết rồi mà bà con chưa nghỉ làm.  Ai cũng đều hớn hở trả lời cả xóm sinh sống bằng nghề se nhang quanh năm, mần ăn nhờ có mấy ngày này, làm giao không kịp, thấy bắt ham. Rồi họ nói tiếp “Thôi để qua tết mình ăn tết sau thiên hạ vậy”. Ngày nay những nơi này đều biến thành làng nghề truyền thống. Khi đó làm nhang chủ yếu bằng mụn cưa mà thôi, nếu có làm nhang thơm thì chỉ là vỏ quế, vó bầu, hương hồi đâm nhuyễn trộn với mụn cưa, đã là quá sang rồi nhưng bán không chạy bằng nhang thường này. Qua những hình ảnh  này, chúng ta  có thể liên tưởng được  nhu cầu thắp nhang của tuyệt đại  đa số người dân Việt mình, hay ít nhất của một làng, một xả hay ấp nơi đó, mà thầm tin tưởng  truyền thống thờ cúng Tổ Tiên, những người đã khuất và đặc biệt cúng Phật thường ngày v…v.. vẫn luôn  được thường còn, góp  một phần không nhỏ vào hình thái , tập tục  đẹp ấy của dân tộc.

                       Chưa kể đến những ngôi chùa, đặc biệt các ngôi chùa Ni giới, việc se nhang một thời là nguồn thu nhập chính yếu của bản tự, nuôi sống  tinh thần chuyên tu, chuyên học của rất nhiều thế hệ xuất gia, nhất  vào những thời điểm khó khăn nhất của cuộc sống. Cũng thức đêm thức hôm ngồi se từng cọng nhang để kịp sáng ngày cho các sư cô, các điệu mang ra chợ ngồi bán. Những bàn tay thoăn thoắt trên bàn chà se nhang của quý chư Ni ngày đó luôn làm  chúng ta chạnh lòng và thầm kính ngưỡng ý chí, tinh thần tu học, xả thân cầu giải thoát của họ. Một trong những tinh thần mà mỗi buổi khuya sớm công phu, họ từng đọc : “ Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập”( Trong đời ngũ trược đầy ( khó khăn ) tội ác con xin vào trước).

                       Nhớ thời còn bé, mỗi dịp cúng kiến trong nhà hay thắp nhang thường ngày trên bàn thờ Phật và Gia Tiên, bà tôi luôn sai đi qua tiệm tạp hóa mua nhang, mà phải là thứ nhang không có mùi thơm, bà tôi đơn giản nghĩ rằng đó là mình góp phần ủng hộ người làm ra từng cọng nhang thân thiết, hay ủng hộ các chùa có se nhang để nuôi tăng chúng tu học. Cho đến tận hôm nay, gia đình vẫn còn giữ nếp nghĩ đó và vẫn thực hiện việc thắp nhang như bà ngày trước từng làm. Vào cuối thập niên 80, loại nhang màu đen của Thái Lan tràn ngập thị trường Việt nam, hương thơm của nó làm điên đảo bai người và xem đó là loài nhang rất quý thời đó. Khi đó ít ai nghĩ rằng đó chính là những loại nhang có tẩm hóa hóa chất hay hương liệu nhân tạo. Gia đình  tôi thì không dám sử dụng vì bà tôi còn đó và các thanh viên trong gia đình không thể quên  ngay trong đêm cúng giao thừa, trên bàn thờ  trong  nhà hay ngoài sân, bà cấm tuyệt đối   và gởi trả lại  vài  hộp nhang ấy cho  dâu, rể làm quà biếu ngày tết! Bà tôi đã  mất lâu rồi nhưng vẫn còn gìn giữ  và vẫn  thắp nhang đầy đủ mà không vì  chống khói độc hại mà  dẹp bỏ  truyền  thắp nhang của dân tộc, ông bà Tổ Tiên mình.
Lang Thang Mien Ky Uc Ngay Giap Tet-phơi nhang 2 ( ảnh Intarnet )

                       Như chúng ta đã biết, hiện nay những tín ngưỡng không có chủ trương thắp nhang (hương) và cũng đã từng lên tiếng đả kích dù biết rằng sẽ đụng chạm đến nên tảng đạo lý dân tộc; nhưng nhiều năm qua họ cũng đã mở rộng tư duy, chấp nhận việc thắp nhang, dù động thái đó còn nhiều khiên cưỡng. Trong khi Phật giáo thì có hẳn nhiều nghi thức cho việc thắp nhang như dâng hương, tán hương, cúng hương v…v…mỗi lần như thế đều có động thái rất thành kính, rất đẹp. Cũng như việc thờ cúng Tổ Tiên, đã hình thảnh hẳn những  ý nghĩa từng động thái như Sá, Lạy, Bái và thực hiện bao nhiêu lần như thế trong từng ý nghĩa của mỗi cuộc lễ. Vậy mà thời gian qua việc thắp nhang như bị đầy lùi, xa dần những nơi có thờ Phật, và cũng đã có ý kiến khuyên không nên thắp nhang vì khói có chất độc ! Nghĩ mà thương cho các làng nghề se nhang của xứ sở mình, thầm trách những ai đả kích việc thắp nhang cũng như tự giận mình ( chứ không dám giận họ ) rằng sao không vào những xưởng sản xuất nhang công nghiệp, các hóa chất, các  hương liệu họ sử dụng ra sao để  thay cho hương thơm tự cõi lòng người dân hiền lành, chất phát tự bao đời  dâng lên chư Phật và Tổ Tiên của mình! Để làm ảnh hưởng, tai tiếng không tốt cho những cây nhang vốn mộc mạc, bình dị và gần gũi với bao người ?

                       Bây giờ thì khác ngày đó nhiều lắm nhưng nghề làm nhang của những xóm làng mình từng đi qua và nhìn thấy đó vẫn không thay đổi, có chăng là nghề của họ được tôn trọng, nâng cao khi những đứa trẻ ngày xưa còn lăng tăng chạy phụ cha mẹ ôm từng bó nhang vừa se xong đem ra sân phơi, nay đã là các vị bác sĩ, kỹ sư hay nhà giáo; họ được lớn lên, trưởng thành bằng chính cái nghề âm thầm này của cha ông họ. Cả đất nước này, có rất nhiều, nhiều lắm những ngôi làng, xóm, thôn sinh sống bằng nghề se nhang lương thiện này mà nếu có một thống kê đầy đủ chắc chắn sẽ là một con số không nhỏ. Bởi vì, tập tục, truyền thống văn hóa  quê hương mình vẫn còn đó tinh thần thương  nhớ cội nguồn, thờ kính Tổ Tiên, và cũng chính vì truyền thống  đó mà đã có biết bao nhiêu  sự xả thân cứu nước và dựng nước của nhiều  thế hệ lịch sử vẻ vang. Từ nền tảng chân lý của đạo nghĩa Tứ Ân, Phật giáo đã giúp nâng cao thêm giá trị nhiều mặt của việc thắp nhang.

                      Có một câu hỏi của bà tôi cho đến bây giờ anh em gia đình vẫn chưa có câu trả lời. Khi bà đã xa anh em chúng tôi rồi, nhìn và suy gẩm từ trong thực tại mới giật mình nuối tiếc mỗi khi cầm trên tay  bộ 3 cây nhang cúng giao thừa, đó là “Tại sao bây giờ tiến bộ rồi, có biết bao nhiêu thứ nhang được tẩm đủ thứ mùi thơm để bán đắt hàng, mà riêng ba cây nhang lớn dùng để cúng rước Ông Bà trong đêm giao thừa, loại nhang mà  gia đình nào dù nghèo hay giàu cũng đều phải mua, họ không dám cho vô đó bất cứ mùi thơm nào ?”.

 

                                                                                DƯƠNG KINH THÀNH




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/06/2016(Xem: 9647)
Khi vị Đạt Lai Lạt Ma hai mươi bốn tuổi thấy đám đông, ngài nhủn người ra và lau nước mắt liên tục. Mọi thứ ngài đã trải nghiệm trong vài tháng huyên náo đó - sự gia tăng áp lực của Trung Cộng ở Lhasa, sự đào thoát khốn khổ qua rặng Hy Mã Lạp Sơn, việc cuối cùng nhận ra rằng ngài đã trở thành một người tị nạn - tất cả đã kết tụ lại trong giây phút ấy. Những cảm xúc mâu thuẩn ấy ngài đã từng kềm chế vở òa. Và ngài đã lau nước mắt như ngài chưa từng làm như vậy bao giờ trước đây.
11/06/2016(Xem: 9722)
Từ vô thuỷ, thiên nhiên đã hiện hữu. Mẹ thiên nhiên đã đến trước loài người hàng triệu năm. Con người cần thiên nhiên cho sự sống còn của mình, nhưng rất tiếc là con người đã và đang tàn phá nó—trực tiếp hủy hoại bản thân mình và những thế hệ kế thừa. Trái đất Mẹ là nơi chúng ta đang sinh sống và không còn hành tinh nào khác để chúng ta được sống. Chúng ta là “những đứa con” của tự nhiên và vì thế chúng ta cần có trách nhiệm bảo vệ đất Mẹ mà trước hết là tìm ra những giải pháp để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, nếu không chúng ta sẽ phải đối mặt với sự khủng hoảng hơn là ô nhiễm môi trường và có thể chúng ta đang trượt vào sự tuyệt chủng. Sống hay không sống trong sự hài hòa với thiên nhiên là lựa chọn duy nhất của con người với Trái đất Mẹ.
10/06/2016(Xem: 9961)
Ngày học ở nước ngoài, cuối tuần tôi rất thích vào nhà thờ nghe các cha giảng( ở Nga, Úc, Mỹ,.. và những nơi tôi học tập và công tác rất ít chùa, và nếu có thì rất ít các buổi thuyết pháp). Phải công nhận là các bài giảng rất hay, rất ý nghĩa. Có nhiều nội dung của các bài giảng tôi nhớ đến tận bây giờ. Từ ngày về Việt Nam tôi may mắn hay được nghe quý thầy thuyết pháp.
08/06/2016(Xem: 6979)
Chuyến đi Việt Nam lần này, ngoài việc làm lễ giỗ cho Mẹ, chúng tôi về Tổ Đình Long Tuyền đảnh lễ Sư Phụ, lễ Giác Linh sư huynh Giải Trọng và thăm quý thầy, ghé Tổ Đình Phước Lâm lễ Phật, đến chùa Bảo Thắng thăm chư Tôn Đức Ni, cũng như đi thăm một vài ngôi chùa quen biết. Như đã dự trù, tôi còn đi miền Bắc để thăm viếng ngôi chùa mà vị Thầy thân quen của tôi T.T Hạnh Bình mới vừa nhận chức Trụ Trì. Khi nghe Thầy báo tin nhận chùa ở ngoài Bắc, tôi có nói: Thầy nhận chi mà xa xôi thế? Nói thì nói vậy, chứ thật ra tôi rất mừng cho Thầy, ngoài tâm nguyện hoằng pháp độ sanh mà hàng trưởng tử Như Lai phải lo chu toàn, Thầy còn có nỗi thao thức đào tạo những lớp phiên dịch cho chư vị Tăng Ni từ Hán ngữ sang Việt Ngữ.
08/06/2016(Xem: 9994)
Nhân dân Việt Nam đánh giá rất tích cực chuyến viếng thăm chính thức Việt Nam của tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama từ 22-25/5/2016, vào thời điểm gần cuối nhiệm kỳ thứ hai của ông ở nhà Trắng. Dùng khái niệm “Cơn sốt Obama”, tôi muốn phân tích bài diễn văn của Tổng thống Obama tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình, vào lúc 12 giờ 10 phút, ngày 24/5/2016
01/06/2016(Xem: 13816)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
01/06/2016(Xem: 7383)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Xin thông báo cùng chư Pháp hữu và qúy Phật Tử lịch trình Hoằng Pháp và sinh hoạt tu học với sự chia sẻ của Thầy Tánh Tụê trong tháng 6-2016
01/06/2016(Xem: 9419)
Khi có một con đường trước mặt, mục tiêu tinh thần của cuộc sống, thì dẫu khó khăn trắc trở, gần hay xa; con người vẫn tìm về bến Giác, tinh tấn tu tập, khai sáng u mê. Đó là lý do tôi tham dự khóa Huân Tu Tịnh Độ thứ 11 tại chùa Linh Thứu - Berlin (từ 14 - 20, 3 - 2016). Năm vừa qua, lần đầu tiên tôi tham dự khóa Huân Tu Tịnh Độ tại chùa Linh Thứu - Berlin. Thật ra, hằng năm tôi thường tham dự các khóa Tu học Phật pháp Âu Châu nhiều hơn.
01/06/2016(Xem: 8468)
Không cần chữ nghĩa, không cần giáo. Chỉ cần chỉ thẳng tâm thật, thấy “tánh” của mình là thành Phật. Đây rõ là một đường tu tập với tâm lực cực mạnh, rất ít người có đủ căn cơ để chỉ thẳng vào tâm thật của mình, thấy được bản tánh giác ngộ của mình để thành Phật. Khi Tổng thống Mỹ Barack Obama chịu thay áo, một chiếc áo đã quá cũ kĩ đối với truyền thống tôn giáo của Ông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]