Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tranh Chăn Trâu Thiền Tông Của “Zen Mountain Monastery”

06/02/202111:01(Xem: 6358)
Tranh Chăn Trâu Thiền Tông Của “Zen Mountain Monastery”

TRANH CHĂN TRÂU THIỀN TÔNG

CỦA “ZEN MOUNTAIN MONASTERY”

 

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

 

     Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện.

     Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.

     Thiền sư Daido Loori cho biết:

     “Con đường đưa đến giác ngộ là một cuộc hành trình tâm linh để khám phá ra cái bản chất thật, cái chân tính của chúng ta. Nhưng chính ra thời ngay từ lúc khởi đầu chẳng có cái gì để cho chúng ta thâu đạt được cả. Ngay từ khởi thủy chúng ta đã hoàn hảo và tròn đầy, chúng ta không thiếu chi hết. Trong suốt cuộc hành trình tâm linh, khi tham gia rồi trải qua những sự tu luyện đặc biệt chúng ta chỉ tự mình kiểm nghiệm và thực chứng cái sự toàn thiện đó mà thôi.” … “Trong những ngày học Thiền, tôi và tất cả các học viên khác đều thật sự muốn biết xem mình đã thành tựu được những gì và mình sẽ phải trải qua những bước thử thách gì nữa trong thời gian tới. Vì lý do đó tại tu viện của chúng tôi, chúng tôi đã hoạch định ra một chương trình huấn luyện có vẻ hơi độc đoán nhưng rất hữu ích, dựa vào một loạt những tranh vẽ từ thời Trung Quốc cổ xưa. Đó là “Mục Ngưu Đồ”. Tranh minh họa sự phát triển tinh thần của một học viên kể từ lúc mới bắt đầu bước học tập để điều luyện tâm ý, cho tới khi hoàn tất việc huấn luyện…”

     Thiền sư Daido Loori kể lại là ở bên Nhật Bản nếu một người muốn học võ thuật thời phải tìm thầy. Học viên sẽ được mặc đồng phục và thắt một cái đai màu trắng. Trong suốt thời gian tập luyện, theo truyền thống thời cái đai trắng này không được mang giặt. Sau nhiều năm sử dụng đai này sẽ bẩn đi và chỉ có thể được gọi là “đai đen”. Khi học viên tốt nghiệp cũng là lúc được vinh danh là “võ sĩ đai đen”. Sau này tại Tây Phương khi học viên học tập võ thuật người ta cũng muốn đánh dấu từng bước tiến bộ của học viên và do đó nương theo cái đai đen của Nhật Bản thời xưa mà đặt thêm ra các loại “đai vàng”, “đai xanh”, “đai nâu” v.v… thêm vào cái “đai trắng” của người học viên mới khởi đầu học võ và “đai đen” của người học viên đã được huấn luyện thuần thục.   

     Thiền sư Daido Loori kết luận:

     “Bộ tranh gồm mười bức của thiền sư Quách Am là bộ tranh được dùng tới nhiều nhất. Tại tu viện, chúng tôi dùng những tranh này và những vần thơ của thiền sư Quách Am… Theo tôi thời người ta huấn luyện tốt hơn khi họ được biết rõ ràng về từng bước tiến bộ mà họ đã thành tựu được” … “Mười bức tranh chăn trâu và những bài thơ kèm theo là một loạt những bảng chỉ đường. Đối với một số người thời mười bức tranh đó rất hữu ích. Đối với một số người khác thời mười bức tranh đó có thể trở nên những chướng ngại. Xin đừng để những bức tranh chăn trâu đó trở thành những cái ngăn trở bạn. Hãy sử dụng chúng để soi sáng con đường đạo của bạn. Rồi hãy buông bỏ những tranh đó đi.”

     Phải chăng khi buông bỏ không cần dùng đến “mười bức tranh chăn trâu” cũng chính là giai đoạn mà hành giả đã qua tới bờ bên kia rồi, cần chi mang vác theo “chiếc bè” nữa…!     

 

     Mười bức tranh chăn trâu và lời tiếng Anh trong phần kế tiếp sau đây được trích dẫn trong cuốn sách nguyên bản là “PATH OF ENLIGHTEMENT” Stages in a Spiritual Journey (được xuất bản bởi Zen Mountain Monastery, Mt.Tremper, NY, 1999.) 

     Phần tiếng Anh đã được soạn giả chuyển ngữ sang tiếng Việt.

1. SEARCHING FOR THE OX

 

Vigorously cutting a path through the brambles,

you search for the ox;

Wide rivers, eternal mountains, the path seems endless.

With strength depleted,

and mind exhausted, you cannot find it.

There is only the gentle rustle of maple leaves,

and the cicadas’ evening song.

 

1. TÌM TRÂU

Xông xáo mở đường xuyên qua các bụi cây gai dại

bạn tìm trâu;

Sông rộng lớn, núi trùng điệp, đường mòn hầu như vô tận.

Với sức suy nhược,

và trí kiệt quệ, bạn không tìm thấy trâu.

Chỉ có tiếng xào xạc nhè nhẹ của lá phong,

và tiếng ve kêu vang lúc chiều về.

Tranh-Chan-Trau-Thien-Tong-000

2. FINDING TRACES OF THE OX

 

Along the river, deep within the forest,

You find the traces;

Leaving behind the fragrant grasses,

You study the subtle signs.

The tracks, suddenly as clear as the distant sky,

Lead you into the endless mountains.

There is no place to hide.

 

2. TÌM THẤY DẤU VẾT TRÂU

Dọc theo dòng sông, thẳm sâu trong rừng,

bạn tìm thấy các dấu vết;

Bỏ lại các đám cỏ thơm ở phía sau,

bạn quan sát các dấu vết tinh tế.

Các lối đi thình lình sáng tỏ như bầu trời ở xa,

Đưa bạn vào trong những núi non vô tận.

Không có chỗ nào ẩn núp được.
Tranh-Chan-Trau-Thien-Tong-001

3. SEEING THE OX

 

The song of the yellow oriole

echoes in the forest.

Warm sun, gentle breeze,

willows green along the shore.

The ox has no place to turn

In the brambles.

 

3. THẤY TRÂU

Tiếng hót của chim vàng anh

vang lên trong rừng.

Mặt trời ấm áp, làn gió nhẹ êm,

liễu xanh dọc theo bờ.

Chú trâu không có đường nào xoay trở

trong các bụi cây dại.

Tranh-Chan-Trau-Thien-Tong-002 

4. CATCHING THE OX

 

Through extraordinary effort

You seize the ox.

Still, its will is forcefull,

And its body spirited.

Sometimes it runs high into the mountains,

other times it disappears into the mist.

 

4. BẮT TRÂU

Nhờ những cố gắng phi thường

bạn nắm giữ được trâu.

Tuy nhiên ý chí của trâu còn sinh động,

Và thân trâu còn mãnh liệt.

Đôi khi nó chạy lên cao vào trong núi,

có lúc nó biến đi vào trong sương mù.

Tranh-Chan-Trau-Thien-Tong-003 

5. TAMING THE OX

 

The whip and tether cannot be put aside

Or the ox may wander into mud-filled swamps.

When patiently trained to trust, it becomes gentle

and can be unfettered.

Then, freely,

it follows your way.

 

5. CHĂN TRÂU

Không thể cất roi và dây đi

Kẻo trâu có thể chạy càn

vào trong những vùng đầm lầy ngập bùn.

Khi được kiên nhẫn huấn luyện để tạo tin tưởng,

trâu trở nên nhu hòa và có thể khỏi bị buộc ràng nữa.

Lúc đó, tự do,

trâu theo gót bạn trên đường.

Tranh-Chan-Trau-Thien-Tong-004

6. RIDING THE OX HOME

 

Following the winding road

you ride the ox home.

The sound of your rustic flute

Pervades the evening haze.

Each note, each song: feeling unbounded.

Beyond lips and mouth.

 

6. CƯỠI TRÂU VỀ NHÀ

Đi theo những con đường ngoằn ngoèo

bạn cưỡi trâu về nhà.

Thanh âm ống sao mộc mạc của bạn

vang lên trong sương chiều.

Mỗi một nốt nhạc, mỗi một ca khúc: tình cảm vô tận.

Vượt ra ngoài giới hạn của môi và miệng

.Tranh-Chan-Trau-Thien-Tong-005

7. FORGETTING THE OX

 

Astride the ox, you reach home.

Now at rest, the ox is forgotten.

With the bright sun high in the sky,

you are in blissful repose.

Whip and tether are abandoned

behind the thatched hut.

 

7. QUÊN TRÂU

Cưỡi trâu, bạn về tới nhà.

Giờ đây yên nghỉ, người ta quên trâu.

Với ánh mặt trời trong sáng ở cao trên bầu trời,

Bạn ngơi nghỉ trong hạnh phúc tột đỉnh.

Roi và dây được cất đi

sau túp lều tranh.

 

Tranh-Chan-Trau-Thien-Tong-006

8. TRANSCENDING THE OX

 

Whip, tether, self, and ox

all have merged, no traces remains.

The vast blue sky cannot be reached by thoughts;

how can a snowflake abide in a raging fire?

Having reached home,

you are in accord with the ancient way.

 

8. KHÔNG CÒN TRÂU

Roi, dây, người và trâu

tất cả đều đã hợp nhất, không dấu vết chi lưu lại.

Bầu trời xanh rộng lớn

không thể vươn tới được bằng tư tưởng;

Làm sao mà một bông tuyết

có thể tồn tại trong ngọn lửa dữ dội?

Về tới nhà,bạn hợp với đạo tổ tông.

Tranh-Chan-Trau-Thien-Tong-007

9. RETURNING TO THE SOURCE

 

Having returned to the source,

effort is over.

The intimate self sees nothing outside,

hears nothing outside.

Still, the endless river flows tranquilly on,

the flowers are red.

 

9. TRỞ VỀ NGUỒN CỘI

Trở về nguồn cội,

nổ lực đã xong xuôi.

Cái bản ngã thiết thân không còn nhìn thấy chi ở bên ngoài,

không còn nghe thấy chi bên ngoài

Chỉ còn dòng sông vô tận vẫn lặng lẽ chảy xuôi,

các bông hoa thời đỏ.

Tranh-Chan-Trau-Thien-Tong-008

10. ENTERING THE MARKETPLACE

 

Entering the marketplace

barefoot and unadorned.

Blissfully smiling, though covered with dust

and ragged of clothes.

Using no supernatural power,

You bring the withered trees spontaneously into bloom.

 

10. VÀO CHỢ

Vào chợ,

chân đất và không chải chuốt.

Cười hạnh phúc, mặc dù lấm bụi

và áo quần rách rưới.

Không dùng đến thần lực,

Bạn khiến cho các cây khô héo chợt bừng nở hoa.

Tranh-Chan-Trau-Thien-Tong-009


***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/04/2015(Xem: 8956)
Tôi năm nay 24 tuổi, công việc ổn định và yêu một anh bạn đồng nghiệp, hai chúng tôi dự định ba tháng nữa sẽ làm lễ cưới (lễ hằng thuận) ở chùa. Vừa rồi, tôi đưa anh ấy ra Bắc, nơi chùa chị tôi xuất gia tu học để làm lễ quy y cho anh. Quy y xong, anh được nhà chùa cho tụng kinh, khi tụng xong thì chuyện bất ngờ xảy ra, chồng sắp cưới của tôi xin phép thầy xuất gia. Sự việc xảy ra quá nhanh khiến tôi hết sức bất ngờ, buồn vui lẫn lộn. Nếu anh ấy xuất gia được thì hủy lễ cưới luôn. Thầy bảo sẽ trợ duyên cho anh ấy ở chùa tập sự một năm mới được xuống tóc và gửi đi học. Bây giờ, ngoài việc niệm Bồ-tát Quan Thế Âm ra, tôi chẳng biết làm gì nữa.
31/03/2015(Xem: 9071)
Giới luật và Phẩm Hạnh Huynh Trưởng
31/03/2015(Xem: 18750)
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
29/03/2015(Xem: 19096)
Giảng về diệu lý Bát Nhã của Bộ Kinh Kim Cang là pháp môn bình đẳng. Chúng ta phần đông đều không hiểu cho nên đầu lại thêm đầu, tướng lại thủ tướng đem cái pháp bình đẳng biến thành không bình đẳng.
28/03/2015(Xem: 8922)
Thuyết pháp là hạnh cao quý của người hoằng pháp vì họ là sứ giả của Như Lai, mang ánh sáng của chánh pháp rải đều khắp nhân gian khiến cho muôn người được hưởng cam lồ vị - sống hạnh phúc, chết bình an, hưởng an lạc ở nhàn cảnh, hay giải thoát, niết bàn. Hiện nay, sinh hoạt thuyết pháp phát triển sôi nổi ở nhiều nơi trong nước và hải ngoại.
26/03/2015(Xem: 8178)
Từ khi lộ ánh trăng thiền Tri ân sâu nặng cơ duyên cuộc đời Vô ngôn sáng giữa muôn lời Dấn thân thế sự, chẳng rời Tánh Không. ---
23/03/2015(Xem: 9657)
Từ xa xưa đã có hiện tượng cư sĩ tham gia tu tập Thiền, Tịnh Độ và học tập nghiên cứu Phật Học; nhưng thời cổ đại, việc cư sĩ tại gia học Phật là hành vi tự phát riêng lẻ, không có tổ chức đoàn thể đại chúng cùng tu tập. Trong quá trình lịch sử phát triển của Phật giáo Trung Quốc, các cư sĩ có vai trò rất tích cực trong việc học và hoằng dương đạo Phật, trải qua nhiều thời đại đã xuất hiện không ít những vị cư sĩ có cống hiến lớn lao với đạo. Đến thời nhà Thanh, do mạng mạch truyền thừa bị gián đoạn do đó khiến Phật Giáo suy yếu. Sau đó có cư sĩ Dương Nhân San phát tâm gánh vác, vận động lập ra hình thức đoàn thể cư sĩ để phục hưng Phật giáo. Tiến hành các hoạt động kết tập, in ấn, phát hành kinh điển, mở trường lớp, nghiên cứu Phật giáo, bồi dưỡng nhân tài, cải cách hưng long Phật giáo, đó chính là thời kỳ đầu phát triển của Cư sĩ Phật giáo.
20/03/2015(Xem: 9330)
Nhà sư Alan Piercey là một tu sĩ Phật giáo làm việc tại bệnh viện ở Burnie và cũng từng tham gia bán chocolate để gây quỹ. Đối với những cư dân ở bờ biển Tây bắc Burnie (Tasmania, Úc), thầy được biết đến với nhiều tên gọi, nhưng cái tên phổ biến nhất được lấy từ một bộ phim hoạt hình nổi tiếng. “Pháp danh tôi là Shih Jingang” (phát âm là Cher Gin Gun) - thầy nói. “Thế nhưng hầu hết mọi người sống quanh bệnh viện khu vực Tây bắc tại Burnie này gọi tôi là Sifu (sư phụ).
19/03/2015(Xem: 7702)
Đây không phải là lần đầu tiên tôi được Thọ Bát, được làm “Ni Cô chải tóc bên dòng suối“ một ngày một đêm đâu các bạn ạ! Từ bao năm nay hễ chùa Linh Thứu có lên lịch trình Thọ Bát là có mặt tôi, cho dù ngày ấy tuyết phủ ngập chùa, hay mưa dầm giăng lối. Nhưng chẳng bao giờ tôi tu trọn vẹn được đầy đủ 24 giờ tinh khôi cả, cứ buổi cháo chiều vừa dùng xong tôi đã tìm đường ra xe về nhà để sáng mai lên chùa sớm cho kịp buổi công phu khuya. Hay nhiều khi không thể tham dự được tôi cũng cố lên chùa nghe cho được bài Pháp mới thật hả dạ. Tất cả cũng chỉ vì Gia Duyên còn ràng buộc như câu các Thầy truyền giới vẫn thường đọc trong những buổi Thọ Bát Quan Trai, nên sự thể mới như vậy mà thôi.
19/03/2015(Xem: 7183)
Những Nguyên Nhân Của Hành Động Nầy các Tỳ Kheo, có ba nguyên nhân bắt nguồn của hành động. Ba nguyên nhân nầy là ba nguyên nhân gì? Đó là: lòng tham lam, lòng thù hận, và sự si mê (tham, sân, si). [32] Một hành động khi làm với lòng tham lam, sinh ra từ lòng tham lam, gây ra bởi lòng tham lam, phát sinh ra từ lòng tham lam, sẽ chín muồi bất cứ nơi nào người nầy tái sinh; và bất cứ khi nào hành động chín muồi, người nầy nhận lấy kết quả của hành động, ở trong đời nầy, hoặc là trong đời sau, hoặc là trong những đời kế tiếp sau đó. [33]
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]