Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Con Trâu Trong Phật Pháp

01/02/202121:01(Xem: 4474)
Con Trâu Trong Phật Pháp

CON TRÂU TRONG PHẬT PHÁP

 

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

Thập Mục Ngưu Đồ 

     Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa.

 

     Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.

    

     Trong gần nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, đức Phật đã giảng dạy và hóa độ cho rất nhiều người thuộc nhiều thành phần, căn cơ và nguồn gốc khác biệt nhau. Tùy cơ duyên mà Ngài sử dụng những phương cách giảng khác nhau để khai mở trí tuệ cho hàng đệ tử. Có khi Ngài dùng lời dịu dàng để khuyên răn. Có khi Ngài dùng các lý luận sắc bén để thuyết phục. Có khi Ngài dùng những ví dụ, những ngụ ngôn, những điển cố. Có khi Ngài dùng những định nghĩa. Cũng có khi Ngài dùng các ẩn dụ mạnh mẽ. Trí tuệ của đức Phật đã tỏ rạng trong cách trình bày chân lý cao thâm với những từ ngữ bình dị, thông thường, dễ hiểu, không rườm rà phiền phức. Có rất nhiều phẩm, chương, đoạn trong các Kinh được đức Phật dùng hình ảnh con trâu để diễn đạt giá trị thông điệp giải thoát tâm linh đối với người học đạo.

    

     Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Con trâu ấy lúc nào cũng cận kề với chúng ta như hình với bóng vậy mà rất nhiều người không tỏ ý quan tâm đến sự hiện diện của nó, không chiêm nghiệm để khám phá nó. Bản tính của trâu là thuần hậu, siêng năng, nhẫn nại và cũng dễ điều phục, nhưng thỉnh thoảng vẫn ngu si làm bậy, hung hăng tàn bạo như loài thú hoang. Đó cũng là đặc tính của chúng sinh. Kinh điển lấy hình ảnh trâu để nhấn mạnh đến sự vô trí có trong con người chúng sinh với một cái tâm đầy vọng tưởng, điên đảo, tham, sân, si, buông lung, thiếu tự chủ, chất chứa phiền não, mê lầm và dục vọng. Tâm vô minh của chúng sinh với sự si mê của con trâu vốn khởi đi từ một gốc gác vô minh như nhau. Cả hai đều không giác ngộ được chân tâm của mình mà chỉ sống theo “vọng tâm” điên đảo từ muôn kiếp. Nhưng cả hai đều vốn sẵn có tính Phật nên đều có thể thành tựu giác ngộ và giải thoát. Cả hai đều là Phật sẽ thành. 

 

     Quá trình thuần hóa trâu để cho nó trở thành hiền hòa và chịu phục tùng theo con người là một quá trình mang tính biểu tượng về mặt giáo hóa và chuyển hóa tâm linh trong thế giới nhà Phật. Trâu ví như vọng tâm điên đảo. Người tu tập chuyển hóa tâm giống như trẻ mục đồng chăn trâu, điều ngự vọng tâm sinh diệt để thuần phục nó. Bởi lẽ đó, quá trình tu chứng chính là quá trình chuyển hóa tâm, từ vọng sang chân, từ sinh diệt sang vô sinh diệt, từ mê sang ngộ, từ chúng sinh sang quả vị Phật. Nhưng quá trình chuyển hóa tâm đó, tùy theo căn cơ của người tu mà có đốn có tiệm, có cao có thấp và có sâu có cạn. 

 

     Công việc quán sát từng động niệm của tâm để luyện tâm, để tu tâm tương tự như việc chăn trâu. Đức Phật cũng như chư Tổ đã để lại nhiều lời dạy quý giá để chăn giữ “con trâu tâm ý” này. 

  

     Trong KINH PHÓNG NGƯU (Tăng Nhất A Hàm) ghi lại chuyện quốc vương xứ Ma Kiệt Đà thỉnh Phật và năm trăm đệ tử Phật để cúng dường trong ba tháng. Quốc vương muốn dọn sữa tươi cúng Phật và chúng Tỳ kheo nên phải cho gọi những người chăn trâu ngày ngày mang sữa tươi đến. Sau ba tháng, quốc vương thương cảm những người này nên cho họ cơ duyên đến hầu Phật. Họ đến hầu Phật, sung sướng được chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, nhưng không biết gì để thưa hỏi vì họ chỉ biết việc chăn trâu mà thôi. Họ đem việc đó hỏi Phật, muốn biết phải chăn trâu thế nào cho có hiệu quả thiết thực. Phật dạy nếu biết giữ “mười một điều” thì người chăn có thể làm cho bầy trâu mạnh khoẻ và sinh sôi nhiều thêm.

 

     Nhân đó, Phật cũng quay qua dạy các thầy Tỳ kheo là phải biết “mười một pháp”, để cho thiện pháp được tăng trưởng. Đây là mười một nghệ thuật của người chăn trâu, tương xứng với mười một điều tâm niệm của một vị tu sĩ để điều phục tâm. Danh hiệu của đức Phật là “điều ngự sư” nên cũng có thể hiểu là Ngài cũng như một người chăn, một người đánh xe khéo léo đưa chúng sinh ra khỏi bể khổ, đến được bến bờ giải thoát và an lạc. Mười một điều đó là:

 

     1. Nếu người chăn trâu giỏi biết nhận ra được trâu của mình, biết trâu sắc đen, sắc trắng hay sắc tạp, thời một tu sĩ giỏi cũng phải làm tương tự như thế. Tu sĩ cũng phải biết rõ “sắc pháp”, phải biết nhận ra được những yếu tố tạo nên sắc thân của mình. Phải quán biết sắc thân mình là do “tứ đại” gồm “đất, nước, gió và lửa” tạo thành. Phải khéo quán sát về tính cách kết hợp của sắc uẩn, của các yếu tố căn bản trong thân, quán sát với trí tuệ để thấy rõ bản chất vô thường, bất tịnh của thân.

 

     2. Nếu người chăn trâu giỏi nhận diện được con trâu của mình trong đàn trâu, biết tướng của trâu, biết trâu có tướng tốt hay không có tướng tốt khi so với các bầy trâu khác thời một tu sĩ giỏi cũng phải biết phân biệt hình tướng, nhận biết được các chuyển biến của “thân, khẩu, ý”. Phải biết được những hành động nào của thân, khẩu, ý của mình là thiện, nên làm và những hành động nào là bất thiện, không nên làm. Khi phân biệt được hành vi của kẻ ngu và người trí, phân biệt được việc tối với việc sáng, đó là biết rõ “các tướng”.

 

     3. Khi trâu bị các trùng độc hút máu, các vết thương lở ra, nếu người chăn trâu giỏi biết cọ xát tắm rửa cho trâu, biết mổ xẻ để trừ khử trùng độc thời một tu sĩ giỏi khi thấy điều ác cũng phải biết cái đó là ác, tương tự như là loài trùng độc hút “máu thiện căn” làm vết thương của tâm lở thêm ra. Người tu phải biết sám hối, biết buông xả và biết gột rửa tâm niệm của mình cho sạch khỏi những tham dục, si mê và sân hận. Biết trừ đi thì mới được an ổn.

 

     4. Người chăn trâu giỏi biết chăm sóc băng bó các vết thương của trâu, biết lấy vải, hoặc lấy lá cây che các vết thương, không để cho ruồi muỗi châm chích. Một tu sĩ giỏi cũng phải biết che vết thương lục tình, không để cho các trùng độc phiền não tham dục, sân nhuế, ngu si châm chích gây ra vết thương. Biết hộ trì “sáu căn” của mình là mắt, tai, mũi, luỡi, thân và ý khi tiếp xúc với “sáu trần”, để sáu trần không thể lung lạc mà gây tác hại được.

 

     5. Nếu người chăn trâu giỏi biết cách đốt vỏ cây xông khói lên để trâu khỏi bị muỗi đốt thời một tu sĩ giỏi cũng phải biết xông hương giải thoát lên, biết đem đạo lý mà mình đã học hỏi được mà dạy lại cho người chung quanh mình để họ tránh cho tâm khỏi động loạn, tránh được những khổ đau phiền muộn dằn vặt trong thân tâm họ, hướng dẫn cho tinh thần họ quay về niềm an vui.

 

     6. Nếu người chăn trâu giỏi biết tìm đường đi an toàn cho trâu thời một tu sĩ giỏi cũng phải biết chọn đường đi cho cuộc đời của mình, phải biết thực hành “bát chánh đạo”, biết con đường bát thánh có thể đi đến Niết Bàn. Biết tránh những con đường đưa tới danh lợi, sắc dục, quán rượu, sòng bạc và hý trường.

 

     7. Nếu người chăn trâu giỏi biết thương yêu trâu, biết tìm chỗ ở thích hợp cho trâu thời một tu sĩ giỏi cũng phải biết quý trọng những niềm an vui do thiền định mang lại. Khi nghe pháp phải sinh tâm hoan hỷ, tin tưởng, thọ trì và quyết tâm thực hiện. Khi giảng thuyết Phật pháp thì được pháp hỉ thanh tịnh, các thiện căn tăng thêm lên.

 

     8. Nếu người chăn trâu giỏi biết tìm bến tốt cho trâu qua sông, biết khúc sông nào sâu, khúc sông nào cạn, khúc sông nào dễ lội xuống, dễ đi qua, không có sóng dữ, không có trùng độc, biết đưa những con trâu mạnh qua khúc sông nguy hiểm, lùa những con trâu yếu qua khúc sông cạn, bờ bến tốt, thời một tu sĩ giỏi cũng phải biết bến bờ tốt để an toàn đưa tâm qua, phải biết nương vào “tứ diệu đế” để đến được bến bờ giải thoát. Phải biết thường tìm đến chỗ của những Tỳ kheo đa văn mà hỏi pháp, hỏi để biết tâm mình sáng hay tối, phiền não nặng hay nhẹ. Có thế mới khiến cho mình được vào bến tốt, an lành mà được độ thoát.

 

     9. Nếu người chăn trâu giỏi biết tìm chỗ có ruộng tốt, có cỏ non và có nước uống để thả cho trâu ăn, biết chỗ ở an ổn không có ác trùng, ác thú, thời một tu sĩ giỏi cũng phải biết rằng “tứ niệm xứ” là mảnh đất tốt nhất để đi đến giải thoát. Biết thân bất tịnh, biết thọ là khổ, biết tâm vô thường và biết pháp vô ngã.

 

     10. Nếu người chăn trâu giỏi biết bảo trì những vùng thả trâu, không tàn hại phá phách môi trường nuôi trâu, không vắt sữa trâu đến kiệt quệ thời một tu sĩ giỏi cũng phải cẩn thận và dè dặt trong việc tiếp xúc với quần chúng và thu nhận của cúng dường, đừng để mất tín tâm của Phật tử. Đối với các vật do thí chủ cúng dường như y phục, thực phẩm, sàng tọa và thuốc men thời tu sĩ phải biết nhận lãnh vừa đủ mà thôi. Nếu làm người mất lòng tin thì cũng như tàn phá khu vực chăn trâu.

 

     11. Nếu người chăn trâu giỏi biết nuôi trâu đầu đàn. Con trâu nào lớn nhất, có thể dẫn dắt được cả đàn trâu nên được giữ gìn không để tiều tụy. Uống thì cho dầu lạc, trang sức thì cho vòng hoa, tiêu biểu thì lấy sừng sắt cọ mài, vuốt ve khen ngợi. Biết dùng những con trâu lớn làm gương cho những con trâu con. Tỳ kheo cũng nên theo như thế. Trong chúng tăng có các bậc Tỳ kheo trưởng lão, các bậc đại nhân có uy đức hộ trì chánh pháp, hàng phục ngoại đạo, có thể gieo các thiện căn cho tâm, thời một tu sĩ giỏi cũng phải biết nương vào đức hạnh và kinh nghiệm của các bậc thầy đi trước mình, không được tỏ ra chểnh mảng, xem thường, phải biết cung kính, phụng sự cúng dường đúng cách.

 

     Như vậy là tu sĩ nào thực hiện được toàn hảo mười một điều kể trên thì chính bản thân mình hưởng được những lợi ích tốt đẹp và làm cho tăng đoàn càng ngày càng hưng thịnh. Những điều kể trên người tu sĩ có thể bắt chuớc kẻ mục đồng để thực hành nhưng không phải để chăn dắt con trâu nơi ngoài đồng cỏ mà chính là chăn dắt con “trâu tâm” trong lòng mình.

 

     Những người chăn trâu sau khi nghe Phật giảng các cách chăn trâu cặn kẽ như vậy, rất lấy làm kinh ngạc và thán phục, không tưởng được một hoàng tử suốt đời chưa từng chăn trâu, mà lại biết rành rẽ về các cách chăn trâu như vậy. Họ nói với nhau rằng, trong nghề của mình, biết nhiều lắm ba hoặc bốn chuyện, dù đến bậc thầy chăn trâu cũng chỉ biết năm hay sáu chuyện là cùng. Phật lại biết cả mười một cách, Ngài quả là bậc “nhất thiết trí”. Theo họ, “nhất thiết trí”, một danh hiệu thường được dùng để tôn xưng đức Phật, có nghĩa là cái gì cũng biết, cả đến việc chăn trâu cũng biết.

 

     Trong KINH TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG, đức Phật cũng đã từng minh họa hình ảnh con trâu đi trong đám bùn sâu để chỉ cho hàng xuất gia cần phải nỗ lực tu hành mới ra khỏi cảnh luân hồi sinh tử, thoát khỏi hệ lụy phiền não: “Sa môn hành đạo như con trâu mang nặng đi trong bùn sâu, mệt nhọc đến mấy cũng không dám ngoái đầu nhìn hai bên, mà phải đi cho mau, rời khỏi bùn sâu mới được nghỉ ngơi. Sa môn luôn coi ái dục còn hơn ùn sâu, nên thẳng tắp một mạch mà hành đạo, mới thoát khỏi sự khổ lụy”. 

 

     Trong KINH PHÁP HOA có nhiều dụ: từ dụ nhà lửa, dụ chàng cùng tử, dụ cỏ thuốc đến dụ hóa thành, dụ hiện tháp báu v.v... Hình ảnh cái xe do trâu kéo hiện ra trong phẩm “Thí dụ”. Phẩm kể về một trưởng giả tuổi đã già, rất giàu có, sở hữu một tòa nhà lớn nhưng chỉ có một lối ra vào. Con cái ông rất đông đang vui chơi trong đó, nhưng phút chốc bốn phía ngôi nhà cùng một lúc bốc cháy. Các con ông mải vui chơi, không hề hay biết. Ông kêu các con mau chạy thoát ra nhưng các con ưa vui chơi, không sợ sệt, chẳng hiểu gì là lửa, chẳng biết thế nào là nguy hại, cứ mải mê chạy giỡn nhìn cha mà thôi, không chịu nghe lời cha khuyên bảo. Ông phải dùng phương tiện dụ dỗ cho các con các thứ đồ chơi quý báu như ba cỗ xe đó là các xe dê, xe hươu và xe trâu đẹp đẽ và lộng lẫy hầu kích thích lòng ưa thích của các con để dụ cho chúng ham muốn mà chạy ra khỏi nhà lửa.

 

     Nhà lửa chỉ cho ba cõi: dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Đây là ngôi nhà tâm thức chúng sinh trú ngụ, nó đang bị thiêu đốt bởi ngọn lửa “vô thường”, bởi các ham muốn, nhu cầu của vọng tâm điên đảo. Các người con đang vui chơi trong nhà lửa mà không hay biết căn nhà đang bốc lửa, dụ cho chúng sinh đang bị “sinh, lão, bệnh, tử” đốt cháy. Xe dê tượng trưng cho “thanh văn thừa”. Xe hươu biểu thị cho “duyên giác thừa”. Xe trâu chỉ cho “Đại thừa” hay “Nhất Phật thừa”. 

 

     Việc dùng xe trâu để biểu tượng cỗ xe Đại thừa mang nhiều ý nghĩa thâm diệu. Thứ nhất hình ảnh con trâu gắn liền với đời sống của người dân. Lấy con trâu làm con vật kéo xe Đại thừa nói lên được tính đại chúng, tính bình dân của lý tưởng thành Phật. Thứ hai, con trâu là con vật có nhiều sức mạnh nên cỗ xe trâu Đại thừa vì vậy mới có thể chở được nhiều chúng sinh đi trên đoạn đường dài từ phàm phu đến thành Phật. Thứ ba, con trâu tượng trưng cho tâm vô minh của chúng sinh. Con đường thành Phật khởi đi từ tâm chúng sinh đến tâm Phật, từ giai đoạn một chúng sinh bắt đầu sơ phát bồ đề tâm cho đến khi hoàn thành việc giác ngộ và giải thoát. Chính vì vậy, cỗ xe chở chúng sinh đi từ bờ bên này vô minh khổ não đến bờ bên kia giác ngộ an lạc phải là cỗ xe tâm chúng sinh, tức cỗ xe trâu, rồi lần hồi chuyển hóa thành tâm giác ngộ, tức cỗ xe Phật thừa trọn vẹn. 

 

     Trong những ngày cuối cùng, ngay trong đêm nhập Niết Bàn tại rừng cây Sa La, đức Phật với KINH DI GIÁO (tức Kinh Lời Dạy Cuối Cùng) đã khuyên dạy các đệ tử của Ngài phải nhằm canh giữ cái tâm của mình, cũng như canh giữ một con trâu, hình ảnh biểu tượng con trâu cũng đã được nêu ra như một hình ảnh cụ thể sống động.

 

     Trong KINH DI GIÁO này nơi mục “chế tâm” đức Phật dạy rất kỹ rằng: “Các vị đã an trụ trong giới luật, nên phải kiềm chế năm căn, đừng để nó buông thả vào năm dục. Ví như người chăn trâu, cầm roi dòm ngó nó, không để cho nó tha hồ xâm phạm vào lúa mạ người ta. Nếu buông thả năm căn, chẳng phải nó chỉ lan vào năm dục, mà nó, hầu như xông tới không bờ bến nào và không thể chế phục được! Cũng như con ngựa dữ, không thể dùng giây cương mà kiềm chế được và nó sẽ kéo người ta sa xuống hố. Như bị cướp hại, chỉ khổ một đời, nhưng tai họa của giặc năm căn kéo đến nhiều đời, làm hại rất nặng, không thể không cẩn thận! Thế nên, bậc trí giả kiềm chế năm căn mà chẳng dựa theo, gìn giữ nó như giặc, không để cho nó buông lung. Giả như, để cho nó buông lung, chẳng bao lâu, sẽ thấy sự tan diệt vì nó. Đối với năm căn ấy, tâm làm chủ chúng. Do đó, các vị nên khéo chế phục tâm! Tâm rất đáng sợ, sợ hơn rắn độc, ác thú, oán tặc. Và ngay như lửa cháy bừng bừng cũng chưa đủ làm ví dụ về chúng! Ví như có người tay cầm bát mật, di động hấp tấp, chỉ ngó bát mật, không thấy hố sâu. Ví như voi cuồng không có móc câu, con khỉ, con vượn, kiếm được rừng cây, leo, trèo, nhẩy nhót, khó ngăn cấm, chế phục được chúng! Nên gấp bẻ gẫy tâm niệm ấy, đừng để cho chúng buông lung. Buông lung tâm ấy, làm mất những việc tốt của người. Chế phục nó vào một chỗ, không việc gì là không xong. Vì vậy các vị Tỳ kheo nên siêng năng tinh tiến triết phục tâm các vị!”  

 

    THẬP MỤC NGƯU ĐỒ (“Mười tranh chăn trâu”) được gợi ý và bắt nguồn từ đó. Đem hành động cầm roi trông chừng con trâu để nó khỏi ăn lúa mạ của người so sánh để minh họa cho hành động tự chế không để năm căn chạy theo năm dục vọng là một lối thí dụ vừa cụ thể, linh hoạt, vừa tế nhị, sâu sắc. Đối với năm dục trong tâm chúng sinh lúc nào cũng sẵn sàng khởi lên để thao tác, người tu cần thận trọng trong từng giây phút như mục đồng trông coi trâu không để nó ăn lúa mạ của người. Người tu không tự chế trong mỗi ý tưởng, lời nói và hành động thì năm dục sẽ có cơ hội thao tác ngay.

     Chuyện chăn dắt con trâu thì rất nhiều. Tùy từng người chăn mà hình thức chăn dắt lại khác nhau đôi chút, nhưng đích đến của những con trâu ấy thì chỉ có một, đó là đưa trở về lại bản thể vô nhiễm, vô sinh, tức cái gốc ban sơ của nó.




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/04/2015(Xem: 10331)
Nằm trên thung lũng xanh Larung cao 4.000m, cách thị trấn Sertar, Garze, Tây Tạng khoảng 15 km, nhìn từ xa Học viện Phật giáo Larung Gar như một ngôi làng nhỏ xinh chứa đựng vô vàn điều thiêng liêng và dung dị nhất của đạo Phật.
25/04/2015(Xem: 10578)
Ngậm ngùi bởi tiếc nuối tuổi trẻ đã trôi qua lúc nào không hay. Ngậm ngùi phải chi hồi đó thế này thế khác... Hình như ta chẳng bao giờ thực sống. Lúc còn trẻ, ta mơ ước tương lai, sống cho tương lai, nghĩ rằng phải đạt cái này cái nọ, có được cái kia cái khác mới là sống.
25/04/2015(Xem: 8668)
Trong đời sống thường nhật, chúng ta gặp quá nhiều những tình huống, ảnh hưởng nhiều mặt, nào là sức khỏe, nhà cửa, con cái, vợ chồng, bạn bè, giao hảo v.v… khiến mình càng thêm âu lo, hoảng sợ. Điển hình là sức khỏe, khi mình còn khỏe thì ‘lo lắng’ tập ăn kiêng cữ, thể dục thể thao để giữ cho mình không bị tật bệnh.
24/04/2015(Xem: 12553)
Câu chuyện hai viên sỏi
24/04/2015(Xem: 8577)
Người có ý chí mạnh mẽ, luôn tìm được niềm hạnh phúc trong khó khăn. Đó chính là những người được gọi là “khốn nhi tri”, họ là những người luôn xem những khó khăn trở ngại trên đường đời, như những “món quà” quý giá của cuộc đời trao cho.
21/04/2015(Xem: 8331)
Tôi có quen với một gia đình, có thể nói là thuộc thành phần trí thức, bởi cha mẹ người bạn đều là nhà giáo, bản thân anh là kỹ sư và vợ là dược sĩ. Tuy vậy, không biết suy nghĩ thế nào, anh luôn tin vào các sách bày bán nhan nhản ngoài phố được cải biên, “làm đi, làm lại” mỗi năm như Lịch vạn niên, Xem ngày giờ, việc lành dữ trong năm và thường lên internet truy cập các trang chuyên hướng dẫn về ngày lành tháng tốt, cúng kiếng, xem tuổi kiết hung?
20/04/2015(Xem: 8104)
Ni Sư Thubten Chodron (thế danh Cherry Green), sinh năm 1950, lớn lên gần vùng Los Angeles. Ni sư hoàn thành Cử Nhân Lịch Sử tại Đại Học UCLA năm 1971. Sau khi du lịch qua Châu Âu, Bắc Phi và Châu Á trong khoảng một năm rưỡi, Ni sư trở về Mỹ, lấy chứng chỉ sư phạm, theo học chương trình sau đại học tại USC về Giáo Dục và dạy học ở Hệ Thống Các Trường tại thành phố Los Angeles. Năm 1975, Ni sư tham dự một khóa tu thiền của Ngài Lama Yeshe và ngài Zopa Rinpoche. Sau đó Ni sư qua Nepal tiếp tục tu học và hành thiền tại Tu Viện Kopan. Năm 1977, Ni sư được Ngài Kyabje Ling Rinpoche cho xuất gia tại Dharamsala, Ấn Độ, và năm 1986 Ni sư thọ đại giới tại Đài Loan…
19/04/2015(Xem: 6138)
Con người ta sống trên đời thường tự chuốc lấy khổ đau, phiền não nhiều hơn gấp bội phần cái khổ không đáng phải khổ của một thân chúng sanh, ấy là vì vọng tâm chấp ngã, chấp pháp.
18/04/2015(Xem: 15930)
Như một áng tinh vân bay qua bầu trời tăm tối Như một giọt nước trong lành giữa sa mạc cằn khô Như một đốm sáng lung linh trong đêm tối mộng hồ Người hiện giữa trần gian Như thực như chơn một Như Lai sứ giả Đã sương tuyết cao sơn Vẫn không mỏi mệt Đông Tây bươn bả Không cau mày giữa rừng cố chấp mê si Vũ khí của người chỉ có trí tuệ và từ bi Thắp ấm trái tim Mở rộng tấm lòng bao dung nhân thế Chỉ chừng ấy thôi Là tôi đã rưng rưng giọt lệ Kính thương người tuổi hạc đã cao Ân đức của người Sánh tựa trăng sao Tịch nhiên chiếu Vô nhân chiếu
18/04/2015(Xem: 9876)
Trong khi cả thế giới lựa chọn chỉ số GDP (Gross Domestic Products – Tổng sản phẩm quốc nội) làm thước đo thịnh vượng và phát triển, thì riêng tại đất nước này, chỉ số đó bị loại bỏ thay vào đó là GNH (Gross National Happiness- Tổng hạnh phúc quốc dân).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]