Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Xá Lợi Phất Khai Thị Cấp Cô Độc

28/01/202110:15(Xem: 6805)
Xá Lợi Phất Khai Thị Cấp Cô Độc
XÁ LỢI PHẤT KHAI THỊ CẤP CÔ ĐỘC
Phổ Tấn
Buddha-305

1.      Dẫn nhập

Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời. Chúng ta nghiên cứu câu chuyện sau này để hiểu ý nghĩa sâu xa, khiến cho Cấp Cô Độc khóc và khẩn xin Xá Lợi Phất, hãy xin đức Phật cho phép giảng bài pháp này, cho các cư sĩ tại gia có được duyên học tập. Thật vậy ai rồi cũng đến ngày chết, khi chết mà đạt được ngộ đạo như Cấp Cô Độc là điều ước mơ của chúng ta. Làm sao ngộ đạo khi nghe Xá Lợi Phất giảng về 5 uẩn như vậy? Để hiểu thấu bài khai thị của Xá Lợi Phất chúng ta cần hiểu hết xuyên suốt đạo Phật. Đầu tiên là Pháp giới duyên khởi rồi đến Tánh Không Bát Nhã Tâm Kinh, sau đến Duy thức với chủng tử trong Tàng thức, rồi đến Nghiệp và sự tái sinh.[1]

2.      Ngũ uẩn trả về với ngũ uẩn là gì?

Xin phép cho chúng tôi diễn giải ý nghĩa lời Xá Lợi Phất khai thị cùng Cấp Cô Độc như sau: Cấp Cô Độc là người cúng dường cho đạo Phật rất to lớn, như vậy tâm từ bi của người cũng to lớn theo. Đạo Phật là đạo giải thoát chỉ cần Từ bi và Tuệ giác. Đó là hai cánh chim đại bàng cất cao đôi cánh bay lên Giác ngộ giải thoát sinh tử luân hồi. Đầu tiên quán chiếu về vũ trụ và chúng sanh được thành hình bằng sự chuyển động không ngừng nghỉ, mọi vật đều đang vận hành nếu ngừng lại là chết là sanh trụ hoại diệt. Vì chỗ chúng đang vận hành không bao giờ ngừng nghỉ nên gọi là Vô thường. Rồi chúng hiện hữu không bao giờ tự chúng mà có được, chúng phải có duyên dựa vào nhau mà hiện hữu, cái này có vì cái kia có, làm duyên cho nhau nên gọi là Vô ngã do duyên kết hợp mà có mặt. Vì Vô ngã nên chúng sanh Khổ và Bất tịnh. Tóm lại đã sanh ra làm người là có Vô thường Vô ngã Khổ và Bất tịnh. Phật đã giảng điều đó và chỉ rõ giải thoát chúng bằng Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên để giải phóng 4 điều khổ đau trên. Với hàng tiểu thừa Phật đã giảng về 12 nhân duyên còn gọi là Nghiệp cảm duyên khởi, tức là duyên do Nghiệp báo dẫn đường và Cảm thọ. Sau đó đến hàng Đại thừa Bồ Tát thì duyên này thành A lại da duyên khởi, tức là chủng tử xâm nhập hàng ngày vào Tàng thức để tạo nghiệp cảm luân hồi. Có nghĩa là đằng sau nguyên nhân của Nghiệp cảm duyên khởi đó là do các chủng tử ở Tàng thức tạo thành Nghiệp, đó là A lại da duyên khởi. Đi sâu hơn về chủng tử này thì mới biết Chân như, tùy duyên sinh ra chủng tử xâm nhập vào A lại da thức, nên gọi là Chân như duyên khởi. Cuối cùng là các pháp làm duyên cho nhau chằng chịt như một matrix, gọi là Pháp giới duyên khởi hay Trùng trùng duyên khởi. Duyên khởi này giữa các pháp với nhau làm duyên, viên thông hỗ trợ nhau mà thành hình.[2] Do duyên trùng trùng như thế nên có sự chuyển đổi theo luật Tùy duyên mà Bất biến rồi trở về Bất biến mà Tùy duyên. Tương tự như định luật Vật chất và Năng lượng (mass and energy conversion) của Einstein gọi là định luật Bảo tồn năng lượng: Vật chất tiêu hủy thành Năng lượng và ngược lại không bao giờ có sự mất tiêu diệt vĩnh viễn. Einstein đã từng bảo nếu bạn cho tôi một phương cách làm biến mất một hạt cát, thì tôi có thể làm cho cả vũ trụ này biến mất. Phật cũng đã dạy khi các Chân Như do tùy duyên mà hội tụ lại thì thành ra con người chúng ta, và nay khi ta chết thì tùy duyên thành bất biến Chân Như trở lại. Nói cho dễ hiểu khi có duyên thì hydrogen kết hợp với oxygen thành nước H2O và nước này vô thường thay đổi từ dạng lỏng thành thể hơi và ngược lại, nay duyên diệt thì nước trả về lại hydrogen và oxygen đó là Đơn chất (element) bất biến chân thật. Khi hội tụ đủ duyên thì 5 uẩn và 7 đại đã tạo thành hình chúng ta, nay thì 5 uẩn tan rã thì trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn, 7 đại về lại 7 đại Chân Như của chúng. Tương tự như thế khi chúng sanh đang sống là vô thường vô ngã khổ bất tịnh vì các việc này do duyên mà có, đằng sau nó là có bất biến là vô thường thì có thường, vô ngã thì có ngã, khổ thì có lạc, bất tịnh thì có tịnh. Phần đầu gọi là hình Tướng hay Động hay sinh diệt còn phần sau là Thể, Bất biến là Tịnh là Chân như. Phân tâm học gọi là hiện tượng với bản chất. Nay khi chết đi thì 5 uẩn có uẩn sắc trả về với cát bụi còn lại 4 uẩn kia là Tâm thì trả về lại Tâm thức, vào trong không gian vô tận thời gian vô cùng. Sau này do duyên hội tụ thì 7 đại kết lại Tâm thức, nhập vào thành bào thai đứa bé có đầy đủ Thân và Tâm. Bản thể Chân Như là thường lạc ngã tịnh là Pháp thân thì kinh Pháp Hoa gọi là Tri Kiến Phật, kinh Lăng Nghiêm gọi là Chân Tâm, kinh Đại Bát Niết Bàn gọi là Phật Tánh, kinh Hoa Nghiêm gọi là Trí Huệ Phật.

Phật dạy rằng, này các tỳ kheo, tuệ giác như là lửa cháy trên cây củi là vô minh, lửa càng sáng thì cây củi càng tàn mất đi chứ lửa đó không thể có từ ngoài khác vào. Tuệ giác là Bồ Đề thì cây củi là phiền não tức Vô minh. Phiền não tức là Bồ Đề vậy. Tương tự sinh tử là nỗi đau khổ của chúng sinh thì niết bàn là niềm an lạc của chúng sanh, nên sinh tử là niết bàn. Đứng trên phương diện Tục đế thì nhìn thấy đủ mọi việc: hiện tượng, khổ đau, vô thường, vô ngã, bất tịnh, còn đứng trên phương diện Chân đế là chân thường chân ngã chân lạc chân tịnh. Chân đế này có từ Tục đế mà ra chứ không có ở ngoài mang vào. Phật pháp có từ Pháp thế gian mà có. Đứng về Duy thức thì các chủng tử xâm nhập vào càng ngày càng nhiều tạo thành nghiệp, nên các tỳ kheo cố gắng Thủ hộ 6 căn, ngăn cản 6 căn tiếp xúc 6 trần tạo 6 thức. Với muôn ngàn các chủng tử mới này đã bị dừng xâm nhập vào A lại da thức do Thủ hộ 6 căn, riêng cần quét sạch các chửng tử cũ đi ra cho Tàng thức trống không thì khó thành được. Tu hành như thế thì Đại Thừa cho rằng khó thành đạt vì lấy đá đè trên cỏ. Vì thế mới ra đời Tánh không Bát Nhã Tâm Kinh. Tánh không Bát nhã gọi ngũ uẩn giai Không thì không đây là không có tự tánh, không có độc lập, không có tự mình mà thành lập, phải do duyên mà có. Như vậy Vô ngã và rồi là Vô pháp. Tất cả các pháp do duyên hợp là nên gọi là Giả hợp. Giả đây là không thật cố định vững bền nên nó hiện hữu như là có thật, nhưng không đứng yên thật sự, do mỗi sắc na nó thay đổi luôn luôn nên nó có mặt như là giả, như huyễn như ảo. Nhờ quán chiếu Tánh không nên bứng cội rễ của tham sân si. Các chủng tử mới sanh sẽ không xâm nhập vào Tàng thức và các chủng tử cũ lâu đời cũng sẽ bị quét sạch bởi Tánh không của vạn pháp, của vô ngã và vô pháp. Còn như tu tập diệt trừ lậu hoặc đợi nó ló lên thì chặt đứt, sẽ khó mà chấm dứt cho đến ngày chết đi. Chủng tử mới không có nhưng chủng tử cũ lâu đời vẫn còn đó thì không sao thoát được luân hồi. Như thế Tánh Không Bát Nhã là bổ sung diệt trừ lậu hoặc tận cùng.

3.      Nghiệp và sự tái sinh  .

 Đức Phật dạy chúng sanh có Nghiệp và Quả báo. Nghiệp là hành động do thân khẩu ý tạo thành. Nghiệp do cố ý hành động hoặc vô ý hành động. Từ đó Nghiệp tạo ra kết quả gọi là Nghiệp Quả. Từ nghiệp sanh ra quả còn có Duyên đứng ở giữa nên gọi là luật Nghiệp Duyên Quả. Duyên ở đây là lý Duyên khởi là có điều kiện. Nghiệp chính là lý giải được ý nghĩa của luân hồi. Phật dạy Nhất thiếc duy Tâm tạo nên duyên ở giữa Nghiệp và Quả bị ảnh hưởng ở Tâm, vì thế ta tu tâm để chuyển nghiệp. Tu tâm là an trụ Tâm và điều phục Tâm. Tu tâm nhận được Tánh Không, tâm chúng sanh là Không thì nghiệp tiêu trừ. Quán theo Bát nhã Tánh Không thì nghiệp cũng là không có tự tánh. Và rồi Vô ngã thì không có ai chịu nhận lãnh nghiệp quả, chỉ toàn là một vòng nhân duyên kín xoay vần. Do vậy Nghiệp tùy thuộc vào Hành của chúng sanh. Vì không có ngã nên không có ai chèo thuyền qua bên kia bờ. Tất cã là dòng Tâm thức vận hành mà thôi. Dòng Tâm thức đó chịu nhận Quả báo của Nghiệp thành vòng tròn kín xoay vòng mãi mãi.

4.      Kết luận: Ngộ đạo.

Tất cả hình tướng ngay cả tướng của chúng ta đều là không có thật, Thật tướng chính là Vô tướng. Phật dạy Chân không nên có Diệu hữu. Vì Chân không nên không có hình tướng vì thế nó không có Vô thường, nó không dấy động nên nó Vô sanh. Phật dạy không chấp vào hình tướng gồm 4 tướng: Ngã tướng, Nhân tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tướng. Ngã tướng là chấp vào có cái tôi, Nhân tướng là chấp vào tướng của người, nhân loại tướng, Chúng sanh tướng là chấp vào chúng sanh có thật, Thọ giả tướng là chấp vào thời gian của vạn vật có tuổi tác. Qua Bát nhã thì tánh không có mặt là Chân không. Hiểu theo Tục đế thì Không đây là “không có”, hiểu theo Chân đế thì Chân Không là vắng lặng tịch diệt. Chân Không thì vô tướng còn “không có” là hữu tướng. Chân Không thì vô lậu còn “không có” là hữu lậu. Chân Không là vô vi còn “không có” là hữu vi, vi đây được hiểu là vipassana: giác biết. Như đã kể trên, để có Tánh giác thì Vô minh chỉ cần tiêu hủy đi như que củi và ngọn lửa. Như nước trong và nước đục. Tục đế thì thấy nước đục vì nó có lậu hoặc. Chân đế thì thấy nước trên trời mưa xuống là nước tinh khiết, nhưng vì rớt xuống đất nên có bụi trần làm đục. Vậy cứ để nước đục đó lắng yên, tĩnh lặng thì lậu hoặc trầm lắng xuống thành nước trong trở lại. Vậy do duyên thành nước đục tức là từ Bất biến thành Tùy duyên, và cũng vậy để lắng tụ thì Tùy duyên thành Bất biến. Đại Thừa Khởi Tín nói đến Thể Dụng và Tướng thì hiểu thấu Chân không Diệu hữu và từ đó ngộ được đạo, là nhận được chân thực của vạn pháp. Như thị, vô sanh, vô phân biệt, vô trụ không bám không chấp. Như kinh Bahiya Sutta khi 6 căn tiếp xúc 6 trần mà 6 thức không bám không chấp vào, không có phân biệt cái Tôi xen vào thì là Giác ngộ là Chân tâm hiện ra. Phật dạy rằng: Này Bahiya, trong cái được Thấy sẽ chỉ là cái được Thấy; trong cái được Nghe sẽ chỉ là cái được Nghe; trong cái được Thọ tưởng sẽ chỉ là cái được Thọ tưởng; trong cái được Thức Tri sẽ chỉ là cái được Thức Tri. Cứ thế mà tu tập đi, Bahiya. “khi với ông, này Bahiya, trong cái được Thấy chỉ là cái được Thấy… [nhẫn tới]… trong cái được Thức Tri chỉ là cái được Thức Tri, thì rồi Bahiya, ông sẽ không là ‘ Với đó  .’ Này Bahiya, khi ông không là ‘Với đó,’ thì rồi Bahiya, ông sẽ không là ‘ Trong đó  .’ Này Bahiya, khi ông không ‘Trong đó,’ thì rồi Bahiya, ông sẽ không ở nơi này, cũng không ở nơi kia, cũng không ở chặng giữa. Thế này, chỉ thế này, là đoạn tận khổ đau.”[3] Không còn không gian và thời gian số lượng, như thị và không trụ, không phân biệt. Đó là Ngộ đạo là Thức thành Trí tuệ Bát nhã. Hiểu được lời Phật dạy là 6 căn tiếp xúc 6 trần mà 6 thức phân biệt không sanh ra do Thủ hộ 6 căn giỏi. Kế tiếp là không “với đó” “trong đó” là không còn không gian thời gian của ý thức. Bahiya Ngộ Đạo ngay tức thì trước khi bị con bò hút chết. Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật !!

Tham khảo:

 1-Tôn giả Xá Lợi Phất và trưởng giả Cấp Cô Độc, tác giả: Toàn không. Tham khảo: Thư viện Hoa sen.

2- Pháp giới duyên khởi, Tác giả: Lê sỹ minh Tùng, tham khảo: Thư viện hoa sen

3.- Bahiya sutta, Tác giả: Nguyên Giác Phan Tấn Hải, tham khảo: Thư viện hoa sen.




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/12/2020(Xem: 5872)
Bà Thái Việt Phan, người vừa được bầu vào Hội đồng Thành phố Santa Ana, đã sửng sốt khi nhận được thư cảnh báo từ từ ngôi già lam tự viện Phật giáo mà bà từng lui tới. Chùa Hương Tích đã bị xịt sơn và cảnh sát Thành phố Santa Ana đã coi đây là một tội ác gây ra bởi sự thù địch. Đây là ngôi tự viện Phật giáo thứ sáu bị xịt sơn trong khu vực chỉ trong tháng vừa qua.
02/12/2020(Xem: 8969)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật - Trong tâm tình: ''Lắng nghe để hiểu- Nhìn lại để thương'', chúng con, chúng tôi đã thực hiện một buổi phát quà cứu đói cho 294 hộ tại 2 ngôi làng nghèo có tên là Dugarpur & Amobha cách Bồ Đề Đạo Tràng chừng 8 cây số. Xin mời quí vị hảo tâm xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Thành phần quà tặng cho mỗi hộ gồm có: 1 tấm Saree, 10 ký Gạo và bột Chapati, đường, muối dầu ăn và bánh ngọt cho trẻ em, kèm với 200Rupees tiền mặt để mua thêm gạo cho từng hộ GD.(Bên cạnh đó là những phần phụ phí như mướn xe chở hàng, tiền công đóng gói và công thợ khuân vác, tiền quà cho những người bảo vệ và sắp xếp trật tự tại nơi phát chẩn.)
01/12/2020(Xem: 6250)
Cư sĩ Keith Dowman sinh năm 1945, gốc người Anh, tinh hoa Phật giáo, một vị giáo thụ giảng dạy Thiền Đại Viên Mãn (Dzogchen; 大圓滿), theo truyền thống Ninh Mã, Phật giáo Kim Cương thừa, Mật tông Tây Tạng, dịch giả các kinh điển Phật giáo Tây Tạng. Cư sĩ Keith Dowman đang cư ngụ tại Kathmandu, Nepal, nơi ông đã sống trong 25 năm. Các bản dịch của ông từ tiếng Tây Tạng.
30/11/2020(Xem: 5723)
“Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy Ta có thêm ngày nữa để yêu thương” Cảm ơn vì sáng nay tôi còn nghe được tiếng nói, tiếng cười của người thân, bạn bè. Nhìn xuyên qua khe cửa, lá trên cây đã bắt đầu đổi màu, biến những hàng cây xanh ngày nào thành một bức tranh hỗn hợp nhiều sắc màu. Vài cơn gió lành lạnh lại bắt đầu thổi về mang theo bao hồi ức vui buồn lẫn lộn. Tôi lặng lẽ ngồi đây như ngồi giữa thiên đường của thời xa xưa ấy. Tôi luôn biết ơn sâu sắc đến quý Phật tử xa gần đã hỗ trợ và đồng hành cho NVNY trong suốt chặng đường 5 năm qua. Nhất là những thiên thần đáng yêu tại Las Vegas, sớm hôm luôn bay về nâng đỡ cho Ni Viện khi cần. Năm 5 về trước, lần thứ tư tôi đặt chân đến đất nước xinh đẹp vĩ đại này. Tôi tận hưởng vẻ đẹp của những cánh đồng bất tận, nơi an nghỉ của ánh sáng mặt trời, nơi các đóa hoa tỏa hương thơm vào không gian; và tôi khám phá các ngọn núi tuyết cao sừng sững hiên ngang giữa trời đất, ở đó tôi tìm thấy sự thức giấc tươi mát của mùa Xuân, lòng kh
29/11/2020(Xem: 6828)
Cư sĩ Rob Nairn, vị Luật sư, Thẩm phán Trẻ tuổi nhất tại Rhodesia, Giáo sư Phật học uyên thâm, tác giả, nhà nghiên cứu dân số. Ông sinh ra và lớn lên tại Rhodesia. Ông là môn đồ của Phật giáo Kim Cương Thừa Mật tông Tây Tạng, thuộc dòng truyền thừa Karma Kagyu. Cư sĩ Rob Nairn, người đại diện cho Hòa thượng Tiến sĩ Akong Rinpoche tại Châu Phi (Chöje Akong Tulku Rinpoche,1939-2013, người sáng lập Tu viện Samye Ling Scotland), với trách nhiệm giảng dạy 11 Trung tâm Phật học tại bốn quốc gia Châu Phi. Mục tiêu của ông là giảng dạy thiền và Phật giáo Tây Tạng cho tất cả những ai yêu mến đạo Phật, cũng như ở cấp độ đại học và hậu đại học ở các quốc gia như Vương quốc Anh, Ireland, Châu Phi và Hoa Kỳ thông qua các trường Đại học và các Trung tâm Phật học.
28/11/2020(Xem: 5611)
Chàng vẫn thường chê tôi, chỉ giỏi phân tích sự kiện chứ không có đầu óc tổng hợp. Được rồi! Hôm nay tôi sẽ tổng hợp tất cả các bài Pháp của các Vị nói về đề tài nóng bỏng đang thiêu đốt các dân cư mạng, chỉ một bài hát thôi mà số người lướt sóng lên đến hàng chục triệu lần. Chẳng là gì cả, chỉ câu truyện tình liên quan đến chốn Thiền Môn, chàng là ông Thầy Tu, nàng là cô Quận Chúa. Thuở bé nàng vẫn thường theo cha đến Chùa, Tể tướng thì đàm đạo với Đại Hòa Thượng, tiểu thư "nhí" chơi đùa với "tiểu" Hòa Thượng, hay mua kẹo Hồ Lô tặng chú tiểu, cũng một loại "Tình yêu đi qua bao tử". Thế rồi thời gian thấm thoát thoi đưa, sau mười năm cặp đôi này trở thành một đôi trai thanh gái tú. Nàng đòi ở luôn trong Chùa, nhất định không chịu về, Chàng Thầy tu phải đuổi về vì phạm giới luật của một Chùa Tăng. Thế là Nàng ra đi để rồi mất dấu chân chim, một thời gian sau nghe tin Nàng tự vẫn vì bị tên Thái Tử háo sắc làm nhục.
26/11/2020(Xem: 5437)
Chín năm về trước, trang báo điện tử Phật giáo Indonesia “BuddhaZine” đã cùng nhịp bước với thời đại của thế giới thông tin truyền thống với sự tiến bộ của công nghệ internet. Sự hiện diện của “BuddhaZine” như một phương tiện truyền thông Phật giáo trực tuyến, phù hợp với sự phát triển của công nghệ truyền thông hiện đại, bước sang thiên niên kỷ mới này đã quen thuộc với thế hệ trẻ thanh thiếu niên, và đã được sự hoan nghênh đón nhận của cộng đồng Phật giáo và cư dân mạng, trên hành trình khiến “BuddhaZine” trở thành một tổ chức truyền thông quan trọng, và phát triển “Phật pháp với Nhân sinh” (Buddha Dharma, 佛法與人生), trong cộng đồng trên đất nước vạn đảo này.
26/11/2020(Xem: 9948)
“Tinh thần Dân chủ Nhân dân đã trở thành một phần, không thể tách rời trong phạm vi cuộc sống của nhân loại trên hành tinh này. Điều đó có thể nói là đã ngấm vào tận xương tủy của con người. Nhìn từ sự phát triển của một quốc gia, hay một đất nước phát triển, trên nền tảng chính trị do đa số người dân sống ở một vùng, miền nào đó thực hiện”. Sự phát triển chính trị năng động, cho phép một quốc gia phát triển với tốc độ nhanh. Nói đến Dân chủ, chúng ta cần phải hiểu rằng, Dân chủ thực sự mang lại cho con người quyền tự do biểu đạt, bày tỏ ý kiến, quan điểm, ý tưởng, chính quyền do nhân dân lựa chọn, phản ánh sự lựa chọn của nhân dân, nhà nước do nhân dân làm chủ. Mục đích của Dân chủ là đạt được công lý bình đẳng cho tất cả công dân thông qua sự trung thực, bình đẳng và bình đẳng chính trị.
26/11/2020(Xem: 6867)
Từ hơn chục năm qua tôi vẫn tận dụng từng giờ trong ngày còn lại để nghe pháp, học pháp và chiêm nghiệm về những lời dạy của Cổ nhân hay Giảng Sư sau thời gian cần phải có và cần thiết cho nhu cầu trong đời sống con người.
25/11/2020(Xem: 6033)
Trưởng lão Hòa thượng Napane Pemasiri Thero, Tăng thống Giáo hội Phật giáo Rāmañña Nikāya (රාමඤ්ඤ නිකාය) Sri Lanka, một trong những bậc thạch trụ tòng lâm, cao tăng Phật giáo Nguyên Thủy vừa viên tịch vào ngày 17 tháng 11 năm 2020. Hưởng Thượng thượng thọ 98 xuân. Lễ Quốc tang được tôn trí tại Tòa Nhà Hội Nghị Quốc Tế Bandaranaike (Bandaranaike Memorial International Convention), thành phố Colombo. Lễ truy điệu, trà tỳ hỏa táng vào ngày 22 tháng 11 năm 2020.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]