Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cư sĩ Matthew Kapstein nhà triết học Phật giáo Đại học Chicago

21/01/202108:01(Xem: 4459)
Cư sĩ Matthew Kapstein nhà triết học Phật giáo Đại học Chicago

Cư sĩ Matthew Kapstein nhà nghiên cứu Phật học uyên thâm,
học giả triết học Phật giáo Đại học Chicago

(Matthew Kapstein is a scholarly researcher of Buddhism, a scholar of Buddhist philosophy at the University of Chicago)

 Cư sĩ Matthew Kapstein 2

Cư sĩ Matthew Kapstein, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1949, Giáo sư thỉnh giảng, nhà nghiên cứu Phật học uyên thâm, học giả triết học Phật giáo Đại học Chicago, chuyên về lịch sử triết học Ấn Độ, Tây Tạng, và lịch sử văn hóa Phật giáo Tây Tạng, nghiên cứu những ảnh hưởng văn  hóa trong việc Trung cộng cưỡng chiếm Tây Tạng. Ông là Giáo sư thỉnh giảng về Nghiên cứu Phật học tại Trường Đại học Thần học Chicago, Hoa Kỳ và Giám đốc Nghiên cứu Tây Tạng tại École pratique des hautes études ở Paris, Pháp.

 

Cư sĩ Matthew Kapstein - Học giả triết học Phật giáo của trường Đại học Chicago cùng với cựu Tổng thống Barack Obama, diễn viên Tom Hanks và nhiều người khác đã được Học viện Mỹ thuật & Khoa học Mỹ - ngôi trường danh tiếng tuyển chọn là những thành viên mới nhất của học viện này.

 

Làm việc tại Đại học Chicago, Cư sĩ Matthew Kapstein là giáo sư chuyên về lịch sử triết học Phật giáo ở Ấn Độ và Tây Tạng.

 

Ông thường xuyên giảng dạy các Lý thuyết Đương đại trong Nghiên cứu Tôn giáo, Chương trình Lịch sử Tôn giáo, Triết học Ấn Độ nhập môn, Triết học Tôn giáo. Trong những năm cuối đời, trong các cuộc hội thảo, ông tập trung vào các chủ đề cụ thể trong lịch sử tư tưởng Phật giáo, chẳng hạn như Phật tính, chủ nghĩa Duy tâm, và Nhận thức luận (pramāṇa), hoặc về các chủ đề rộng lớn trong nghiên cứu tôn giáo, bao gồm vấn đề cái ác, các chết và trí tưởng tượng . . .

 

Cư sĩ Matthew Kapstein chia sẻ: Ông cảm thấy vô cùng vinh dự khi được gặp đức Đạt Lai Lạt Ma trong suốt 40 năm qua. Ông đã từng có mặt trong phái đoàn tháp tùng vị lãnh đạo tinh thần Tây Tạng, trong một chuyến đi đến Israel vào thập niên 1990.  

 

Cư sĩ Matthew Kapstein là một học giả triết học Phật giáo và là giáo sư giảng dạy tại trường Đại học Chicago từ năm 1986 đến năm 1989, và tiếp tục đến năm 1996. Ông là một thành viên của Bộ Tôn giáo thuộc Đại học Columbia ở thành phố New York, Hoa Kỳ. Kể từ năm 2002, ông đã làm việc với tư cách là một giảng viên chuyên nghiên cứu tôn giáo tại École pratique des hautes études ở Pari, Pháp. Đây cũng là nơi ông chỉ đạo nhóm nghiên cứu tìm hiểu về Tây Tạng tại Trung tâm de recherche sur les civilizatinons de l’Asie orientale. Ông từng tổ chức các khóa giảng dạy tại trường Đại học Chicago.

 

Năm 2018, ông được bầu vào Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Hoa Kỳ.

 

Các lĩnh vực nghiên cứu của ông là triết học Ấn Độ và truyền thống Phật giáo Tây Tạng. Danh sách các ấn phẩm hiện tại của ông bao gồm các tài liệu tham khảo để làm việc trong cả hai lĩnh vực này. Ngoài ra, ông còn là đồng biên tập của Thư viện Phật giáo Oxford trực tuyến và tạp chí Lịch sử Tôn giáo ra hàng quý.

 

Các tác phẩm ông chụp ở Tây Tạng bạn đọc có thể tìm thấy tại trang himmalayanart.org.

 

Nghiên cứu hiện tại của ông về văn hóa Tây Tạng được khảo sát trong bài giảng Khyentse năm 2012: “Tây Tạng trong thời đại của bản thảo”.

 

Sự nghiệp nổi tiếng của Cư sĩ Matthew Kapstein, một học giả đáng kính đã truyền cảm hứng cho những đóng góp to lớn cho lĩnh vực Phật giáo Ấn Độ và Tây Tạng.

 

Đặc biệt được biết đến với công trình đột phá, và có ảnh hưởng của ông trong nghiên cứu Tây Tạng, Cư sĩ Matthew Kapstein là một chuyên gia thực sự trong nghiên cứu Phật học và châu Á nói chung; sở hữu kiến thức vượt trội về văn hóa và văn minh Tây Tạng, ông đã am hiểu sâu sắc về Phạn ngữ và Ấn Độ học, công việc, thành tích cao của ông trong các lĩnh vực văn hóa, và văn minh này đã minh chứng cho một loạt các quan điểm kỷ luật.

 

Phản ánh một số điều đáng kinh ngạc trong công việc, và sở thích của Cư sĩ Matthew Kapstein, bộ sưu tập các bài lý luận của ông, ông thật xứng đáng được tôn kính là một danh nhân trong nhiều lĩnh vực, một tấm gương chói sáng của ông bởi một số công việc đa dạng trong nghiên cứu Phật học, và châu Á, đã được học bổng và giảng dạy của ông trong tác động. Tham gia vào các vấn đề đa dạng như nền tảng pháp lý của tư tưởng tôn giáo Tây Tạng, sự nghiệp giảng dạy của các Phật tử Trung Quốc hiện đại, lịch sử của Vương quốc Phật giáo Bhutan, và những hiểu biết sâu sắc về Bồ tát Thế Thân (Vasubandhu 316-396), những bài luận của các sinh viên và đồng nghiệp của Cư sĩ Matthew Kapstein được đưa ra như một minh chứng cho một học giả uyên thâm, và giảng viên có công trong việc phổ cập rộng khắp được thống nhất bởi một trí tuệ vị tha hiếm có.

 

Những tác phẩm đã được xuất bản:

 

- Buddhism in contemporary Tibet: religious revival and cultural identity, University of California Press, 1998.

 

- The presence of light: divine radiance and religious experience, University of Chicago Press, 2004.

 

- The Nyingma School of Tibetan Buddhism: Its Fundamentals and History, Wisdom Publications, 2002.

 

- The Tibetans, Malden, MA, USA. Blackwell Publishing. ISBN 0631225749, 2006.

 

- Contributions to the cultural history of early Tibet (Volume 14 of Brill's Tibetan studies library), BRILL, 2007.

 

- The Tibetan Assimilation of Buddhism: Conversion, Contestation, and Memory, Oxford University of Chicago Press, 2002.

 

- Buddhism Between Tibet and China, Wisdom Publications, 2009.

 

- Reason's traces: identity and interpretation in Indian & Tibetan Buddhist thought, Wisdom Publications, 2001

 

Lip video

 

The Tibetan Empire: 7th- 9th century: A Lecture by Matthew Kapstein

https://www.youtube.com/watch?v=x75y5pnbo6o

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Chicago Sun Times)

 

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4717)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5025)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4513)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3746)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7555)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4745)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6176)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5322)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12153)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5352)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]