Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tha Nhân Là Địa Ngục

09/01/202105:18(Xem: 7039)
Tha Nhân Là Địa Ngục

dia nguc tran gian

Tha Nhân Là Địa Ngục


Tha Nhân Là Địa Ngục” (L’enfre, cest les autres/Hell is other people) là câu nói thời danh của triết gia Pháp Jean Paul Sartre. Trong vở kịch nhan đề Huis Clos (Cửa Đóng) tiếng Anh dịch là “Không lối thoát” (No Exit) và tiếng Việt có nơi dịch là “Phía Sau Cửa Đóng” trong đó mô tả ba nhân vật lúc còn sống đã làm nhiều điều xấu. Khi chết bị nhốt vào địa ngục nhưng không phải là “địa ngục” với những cuộc tra tấn ghê rợn về thể xác mô tả trong các tôn giáo, mà bị nhốt vĩnh viễn trong một căn phòng kín. Tại đây ba nhân vật bất đồng, cãi vã nhau- không phải vì cơm áo mà vì quan điểm, sở thích, cách suy nghĩ, tư tưởng, lối sống. Cuối cùng một người không sao chịu đựng được đã thốt lên “Tha nhân là địa ngục”. Câu nói này trở nên nổi tiếng và tồn tại cho tới ngày nay.

Thế nhưng khi câu nói này được phổ biến ra, nó vượt khỏi nội dung của vở kịch, không còn là nỗi khổ của những người khác quan điểm bị nhốt chung trong một căn phòng - mà nó có nghĩa bao hàm là: Tất cả những ai khác mình (tha nhân) đều trở thành địa ngục- tức không đem lại hạnh phúc cho mình mà chỉ gây khổ đau, phiền phức cho mình. Chính vì thế mà những người sống ẩn dật hay ẩn tu là muốn xa lánh tha nhân vì tha nhân chỉ đem lại phiền não. Quan niệm yếm thế có thể nảy sinh từ ý nghĩ rằng: xã hội, tất cả những người chung quanh mình chỉ gây khổ đau, phiền não cho mình và chẳng giúp ích gì cho mình cả.

            Tôi không có khả năng đọc và tìm hiểu về tư tưởng, triết lý cùng các tác phẩm của Sartre mà chỉ phân tích và tìm hiểu về câu nói “Tha Nhân Là Địa Ngục” qua cái nhìn của một người học Phật.

Trước hết chúng ta cần định nghĩa xem “tha nhân” là ai? Tha nhân là người khác mình hay không phải là mình. Do đó, cha mẹ, vợ con, anh em, bạn bè và nói rộng ra bao nhiêu triệu đồng bào và sáu tỷ người trên thế trái đất này đều là tha nhân.

Tha nhân chính là địa ngục:

Chúng ta hãy thử tưởng tượng xem:

-Bao nhiêu khổ đau mà cha mẹ gây ra cho con cái? Nào là ép buộc hôn nhân. Nào là đòi hỏi con cái phải thế này, thế kia. Trong nhà động một tý thì la mắng…khiến chúng nó không chịu đựng nổi phải bỏ đi. Như thế cha mẹ chính là địa ngục.

-Rồi thì bao nhiêu khổ đau do con cái gây ra cho cha mẹ? Như ngang tàng cãi lời, chơi bời lêu lêu lổng, xì-ke ma túy, vòi tiền, gia nhập băng đảng, cuối cùng phạm pháp lâm vòng tù tội…gieo bao khổ lụy cho cha mẹ. Thậm chí con cái còn giết cha mẹ để lấy tiền. Vậy thì con cái có phải là địa ngục, là “tiền oan nghiệp chướng” không? Lúc đó các bậc cha mẹ có thể than, “Thà không sinh nó ra. Thà không có trên cõi đời này có lẽ đỡ khổ hơn? Trên đời này biết bao người đau khổ vì con cái?

-Vợ chồng không thể hòa thuận, không nhường nhịn nhau thì tổ ấm biến thành địa ngục. Có khi âm mưu giết chồng, giết vợ vì ngoại tình hay không chịu đựng nổi nhau nữa. Như thế vợ hay chồng chính là “Oan gia trái chủ” là địa ngục của nhau. Rất nhiều bà vợ đã bỏ đi, bỏ cả con cái khi người chồng bị bệnh ung thư hay mằm liệt giường liệt chiếu. Cũng có người chồng đã bỏ đi khi người vợ gặp tại nạn cụt một tay. Vì nếu ở lại họ không thể chịu đựng được cái địa ngục, nỗi khổ mà người kia gieo cho mình. Tin mới nhất ngày 4/1/2021 từ AP cho biết một người cha ở Mễ Tây Cơ, sau khi cãi vã với người vợ đã giết ba đứa con trai của mình để gây khổ đau cho người vợ. Còn địa ngục nào kinh khủng hơn địa ngục này?

-Trong một quốc gia mà tôn giáo khác biệt, tranh giành quyền lực chính trị. Hoặc cùng tôn giáo nhưng khác hệ phái như ở Trung Đông sẽ trở thành địa ngục với những cuộc đánh bom tự sát và chặt đầu. Lúc đó, đám cưới, các buổi cầu nguyện, các nơi vui chơi, trường học, chợ búa đều trở thành “Cánh đồng chết” (The Killing Field). Cùng chủng tộc nhưng khác tôn giáo có khi trở thành “địa ngục” của nhau.

-Trong một quốc gia mà khác biệt chính kiến không thể hòa hợp, các đảng phái tranh giành quyền lực, triệt hạ nhau. Lúc đó, lưỡng đảng sẽ chia đôi đất nước, tam đảng sẽ chẻ ba đất nước và đa đảng, đất nước sẽ nát như tương. Người dân đứng vào phe này phe kia sẽ coi nhau như kẻ thù, với những cuộc xuống đường đốt phá, hôi của, hăm dọa treo cổ, hành hình và tung tin bịa đặt để bôi bẩn lẫn nhau. Khi đó đất nước biến thành bãi chiến trường, một cuộc nội chiến “Nồi da xáo thịt” chẳng khác nào địa ngục.

-Trong một thế giới mà “cá lớn nuốt cá bé”, các quốc gia xung đột quyền lợi, dùng sức mạnh quân sự để độc chiếm kho tài nguyên của thế giới…lôi kéo đồng minh, dụ dỗ phe đảng theo mình…thì trái đất này sẽ biến thành bãi chiến trường.

-Sau hết, chỉ có tha nhân mới có thể làm phiền, chiếm đoạt, tranh giành, lấy đi cái của ta. Chứ thần linh ma quỷ, cây cỏ, gỗ đá không thể lấy đi bất cứ cái gì của ta. Do đó muốn sống hạnh phúc thì phải xa lánh tha nhân và bảo vệ một cuộc sống riêng tư. Mới đây một bà Mỹ trắng hết mực lo lắng cho chồng con. Một ngày kia bà bỗng la lên rằng bà không hề có một phút giây riêng tư nào để sống cho mình. Thế là bà bỏ đi ra khách sạn ở một tuần lễ để có những giây phút riêng tư, để được sống cho chính mình. Vậy thì chồng con ở đây chính là nỗi khổ của bà. Sống độc thân, không liên lụy tới ai có lẽ sướng hơn?

Tha nhân là ân nhân của ta:

Thế nhưng này bạn ơi,

-Hãy thử tưởng tượng, từ lúc chào đời cha mẹ đã lo lắng cho bạn như thế nào. Không có sự yêu thương đùm bọc, ấp ủ đó thì bạn đã trở thành đứa trẻ mồ côi, một đứa trẻ lạc loài, vô cùng bất hạnh. Mà cha mẹ là ai? Cha mẹ chính là tha nhân nhưng “tha nhân” này lại hy sinh cho bạn? Vậy thì tha nhân đâu phải địa ngục? Trong trường hợp này tha nhân chính là ân nhân, là thiên đường của ta.

-Nhìn ra ngoài xã hội, không phải cặp vợ chồng nào cũng đau khổ, cũng sống trong địa ngục. Nhiều cặp vợ chồng sống rất hạnh phúc vì họ biết yêu nhau, biết giữ gìn tình yêu, biết xây đắp cho tình yêu, biết nhường nhịn nhau, biết kính trọng nhau. Khi đó nơi họ ở chính là tổ ấm, là thiên đường. Thế nhưng vợ đối với chồng đều là “tha nhân”. Mà tha nhân ở đây lại đem lại hạnh phúc cho nhau chứ không phải là “địa ngục” của nhau.

-Bên cạnh những quốc gia mà người dân coi nhau như kẻ thù vì khác chính kiến, vì khác tôn giáo, lại có những quốc gia mà người dân coi nhau như huynh đệ. Thống kê cho biết một số quốc gia sống vô cùng hạnh phúc như: Na Uy, Thụy Điển, Hà Lan, Tân Tây Lan, Costa Rica và Phần Lan. Cuộc sống ở đây tuy không lý tưởng 100% nhưng con người không phải là địa ngục của nhau.

-Bên cạnh những siêu cường hiếp đáp những quốc gia nhỏ, chúng ta còn có Liên Hiệp Quốc và những tổ chức nhân đạo quôc tế để giúp đỡ những quốc gia nhược tiểu. Dù chưa hoàn toàn đầy đủ nhưng nó thể hiện tinh thần tha nhân biết giúp đỡ tha nhân trong tình đồng loại. Ngoài ra lại còn có Tòa Án Quốc Tế để xét xử những tội như: diệt chủng, tội phạm chiến tranh và tội ác chống nhân loại. Những tổ chức này đều là “tha nhân” của những người, những quốc gia được giúp đỡ - nhưng tha nhân biết bảo vệ tha nhân.

-Ngay trong đất nước, cũng có rất nhiều nhà hảo tâm, các tổ chức từ thiện đã đóng góp công sức, của cải của mình để giúp đỡ cho những kẻ thiếu may mắn. Những người này không phải là địa ngục của ai mà họ là niềm an ủi cho những con người bất hạnh. Cho nên chúng ta không thể nói tất cả mọi người (tha nhân) là địa ngục.

-Tất cả những tiện nghi mà chúng ta đang được hưởng đây đểu do tha nhân làm ra. Cả chiếc áo mà chúng ta đang mặc cũng do tha nhân làm ra chứ không phải lá cây hay da thú tự tay chúng ta săn được, hái được. Như vậy tha nhân rất hữu ích cho cuộc sống của chúng ta.

Tha nhân chẳng phải là địa ngục mà cũng chẳng phải là thiên đường:

            
Từ những nhận định trên chúng ta thấy tha nhân vừa đem lại hạnh phúc vừa tạo khổ đau cho nhau theo triết lý “Vạn vật tương sinh, tương khắc”. Còn theo giáo lý của nhà Phật thì tùy duyên, tùy hoàn cảnh, tùy Tâm mà “tha nhân” trở thành kẻ thù hay ân nhân của chúng ta. Hơn thế nữa, Đức Phật còn dạy rằng con người vốn có Phật tánh. Khi Phật tánh hiển lộ thì trên đời này không có ai là kẻ thù. Còn khi Phật tánh bị che khuất thì cha, mẹ, vợ con, anh em, đồng bảo, đồng đội…đều trở thành địa ngục hay kẻ thù của nhau.

Bạn ơi,

Khi bạn cho rằng điều bạn suy nghĩ là đúngquyền lợi của bạn là trên hết và cái Tôi của bạn phải được thỏa mãn…mà bạn cứ nằng nặc như thế… thì bạn không thể sống với ai trên cõi đời này. Và khi đó “Tha nhân chính là địa ngục!”

Bạn ơi,

Ngay trong cuộc sống này.

Những ai chỉ nghĩ về mình.

Và khi cái Tôi của ta quá lớn,

Thì họ đang sống trong địa ngục.

Địa ngục của tư tưởng.

Địa ngục của trí tuệ,

Địa ngục của vô minh.

Và địa ngục của lòng tham.

Còn những ai mà cái Tôi khiêm tốn,

Biết chan hòa với mọi người,

Thì họ đang sống trong một thế giới rất thực.

Rất hạnh phúc và chẳng thấy khổ đau.

Đó là quan niệm Trung Đạo của nhà Phật.

Vậy thì địa ngục ở trong ta,

Chẳng ở đâu xa.

Cuối cùng chúng ta xin cám ơn Jean Paul Sartre đã cho người đời một bài học: Chẳng cần tìm kiếm địa ngục ở đâu. Chỉ cần nhốt chung những người bảo thủ, những người cố chấp, những người cực đoan, những người cuồng tín, những người không chịu lắng nghe người khác, không biết cảm thông với người khác… vào một chỗ... thì nơi họ ở chính là một địa ngục vô cùng khủng khiếp.


Thiện Quả Đào Văn Bình

(California ngày 8 /1 /2021)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/10/2014(Xem: 8623)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
23/10/2014(Xem: 10172)
Tục lệ, hay những lễ nghi đã trở thành thói quen, là văn hóa được ước định của một dân tộc. Sự hình thành tục lệ thường chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong dân gian, hoặc do sự thực hành các tín ngưỡng tôn giáo lâu ngày của một cộng đồng. Sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo không chỉ đi sâu vào dân gian, hòa nhập với đời sống, từng bước hình thành nên một bộ quy phạm lễ nghi về “hôn táng hỷ khánh” (dựng vợ gả chồng, chôn cất người chết, thể hiện niềm vui, bày tỏ việc mừng); mà còn có tác dụng thay đổi phong tục đối với các thói quen dân gian mang đậm màu sắc mê tín trong các việc như: tổ chức hôn lễ rườm rà; đoán số mệnh dựa trên bát tự(1); miễn cưỡng tổ chức việc vui trong lúc gia đạo đang gặp rắc rối với mong muốn giải trừ vận xui, tà khí, chuyển nguy thành an, gọi là xung hỷ; thực hành tục minh hôn(2); duy trì lối khóc mộ; xem phong thủy…
23/10/2014(Xem: 9504)
Từ Thiện chỉ là Tu Phước, đó là cành lá hoa trái, nhưng Tu Huệ là gốc rễ , có chăm sóc cội gốc thì cây Bồ-Đề mới xanh tươi, đó là Phước Huệ song tu, là Tâm Hạnh của một vị Bồ-Tát, Một vị Phật tương lai, hiện tại phải Hành Bồ-Tát Đạo, Phục vụ chúng sinh là cúng dường Chư Phật, Bồ-Tát Giới thì cũng có Xuất gia và Tại Gia, Người con Phật phải luôn tưởng nhớ đến Tánh Phật vốn sẵn nơi chính Thân Tâm Ngũ Uẩn nầy, Người Tu Phật phải luôn nhìn lại chính mình, nếu hiểu được chính Thân Tâm mình, thì sẽ hiểu được người khác, (Tức Quán một Pháp thông, thì tất cả các Pháp đều thông) Người Giác Ngộ đối với Thân Tâm này, chỉ thấy là như hạt bụi, rời hơi thở rồi thì thiêu đốt thành tro, Muốn giải thoát Luân Hồi Sanh Tử, thì sống chấp nhận trả Nghiệp quá khứ, mà không tạo thêm Nghiệp tương lai, Bằng cách, nếu có người phiền não Ta, hay tức giận Ta, thì liền xin lỗi, đó là chấp nhận trả Nghiệp cũ, mà không tạo thêm nghiệp mới,
22/10/2014(Xem: 8484)
Tôi thường đeo một xâu chuỗi nhỏ ở tay, cũng nhiều năm rồi, như một sở thích, như một thói quen. Nhiều người thấy lạ thường hỏi, mang xâu chuỗi chi vậy? Tu hả? Cầu xin gì hả? Thường thì tôi chỉ cười thay câu trả lời vì cũng hơi rắc rối để giải thích.
21/10/2014(Xem: 8868)
Tôi may mắn có mặt trong buổi tối quý giá mà đông đảo Phật tử và thanh niên Hà Nội đã được học hỏi từ Sư bà Thích Nữ Giác Liên, một vị ni sư có 2 dòng máu Ấn – Việt, và là tác giả của cuốn “Đường về xứ Ấn”, tại nhà sách Thái Hà (119 C5 phố Tô Hiệu, phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội). Sư bà Thích Nữ Giác Liên sống ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ đã 7 năm, đã đi giảng Pháp tại nhiều nước trên thế giới. Sư bà cũng là tác giả của nhiều bản đạo ca nổi tiếng.
21/10/2014(Xem: 6648)
Đối với người đời, không có phước đức nào lớn cho bằng vợ đẹp, con khôn, của cải đầy kho, quyền thế, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp… Thế nhưng bạn ơi, -Biết bao nhiêu ông thủ tướng, tổng bộ trưởng bị tù đày vì tham nhũng, gian trá, lạm quyền…thậm chí buôn lậu, dâm ô. Biết bao nhiêu ông tổng thống bị ám sát, lật đổ cũng chỉ vì tranh giành quyền lực. -Ông bố đốt tờ giấy bạc mà người nghèo có thể mua bao gạo để tìm một món đồ cho cô đào cải lương đánh rơi trong phòng trà…vài chục năm sau ông con lại sống như kẻ ăn mày. -Ông bố cặm cụi làm việc suốt đời tao dựng gia tài khổng lồ. Ông con trở thành “công tử” ăn chơi phung phí, bao gái, đua đòi, ném tiền qua của sổ…chẳng mấy chốc phá nát sự nghiệp của cha ông.
20/10/2014(Xem: 21479)
Đây là một trong những câu hỏi mà phóng viên tờ Mandala đã phỏng vấn bác sĩ Alan Molloy, một thành viên lâu năm của Viện Phật học Tara ở tiểu bang Melbourne, Úc, một người đã chứng kiến sự phát triển của đạo Phật tại quốc gia này từ cuối thập niên bảy mươi đến nay.
20/10/2014(Xem: 7446)
Là tín đồ Phật giáo từ năm mười bảy tuổi, đạo hữu luật sư Christmas Humphreys (1901-1983) không thuộc bất cứ một giáo phái nào của Phật giáo. Ông tin vào Phật giáo thế giới, và ông nghĩ rằng: “chỉ trong sự phối hợp của tất cả các tông phái người ta mới có thể thấy trọn vẹn sự vĩ đại của tư tưởng Phật giáo” (only in a combination of all schools can the full grandeur of Buddhist thought be found). Để làm cho quan điểm của mình được Phật tử trên thế giới chấp nhận, ông đã trình bày Mười hai nguyên tắc của Phật giáo (Twelve Principles of Buddhism) nổi tiếng của mình vào năm 1945, được dịch ra 14 thứ tiếng và được nhiều tông phái Phật giáo trên thế giới chấp nhận. Mười hai nguyên tắc ấy có điều giống với Mười Bốn Nguyên Tắc của Đại Tá Olcott giới thiệu trong tác phẩm Phật pháp vấn đáp (Buddhist Catechism) của ông, được xuất bản vào cuối thế kỷ thứ 19.
17/10/2014(Xem: 7065)
Bài viết “Phật trên hè phố Oakland” của nhà báo Trần Khải, tiếp tục được tải truyền rộng rãi trên các website. Bài viết ghi lại đại cương sự kiện phóng viên Chip Johnson kể lại trên báo SFGate.com về một pho tượng Phật đã đem lại sự bình an, sạch sẽ cho một khu phố nhiều tội ác và rác rưởi trước đây. Chi tiết đặc biệt đã thu hút người đọc, là pho tượng Phật Thích Ca bằng đá, chỉ cao khoảng 2 feet, được đặt ở góc đường 11 và đường 19, trong khu Eastlake, thành phố Oakland , là do một người vô thần, tình cờ nhìn thấy tại một tiệm bán vật liệu xây cất.
16/10/2014(Xem: 13986)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đại mà con người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh. Tuy nhiên theo lời Phật dạy, Phật từ tâm, tâm sinh Phật, để đưa đến giải thoát giác ngộ. Do đó nếu đã là Phật tử rồi thì nhất định phải tin lời Phật dạy, hơn nữa Kinh Hoa Nghiêm còn nói: “niềm tin là mẹ của công đức”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]