Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nền Dân chủ của Đức Đạt Lai Lạt Ma Lưu vong là một Hình mẫu trong Tương lai Dân chủ Tây Tạng

04/01/202120:54(Xem: 5510)
Nền Dân chủ của Đức Đạt Lai Lạt Ma Lưu vong là một Hình mẫu trong Tương lai Dân chủ Tây Tạng

Nền Dân chủ của Đức Đạt Lai Lạt Ma Lưu vong
là một Hình mẫu trong Tương lai Dân chủ Tây Tạng

(His Holiness the Dalai Lama’s exile democracy serves a model for future democratic Tibet)

 HH-the-Dalai-Lama-made-his-first-official-remark-on-the-devolution-of-political-responsibilities-dur

Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011.

 

Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:

 

“Ngay cả trước khi rời Tây Tạng vào tháng 3 năm 1959, tôi đã đi đến kết luận rằng, trong hoàn cảnh thay đổi của thế giới hiện đại, hệ thống quản trị ở Tây Tạng phải được sửa đổi, và bổ sung để cho phép các đại diện được bầu của người dân, đóng vai trò hiệu quả hơn trong việc hướng dẫn, và định hình các chính sách kinh tế xã hội của nhà nước. Tôi tin chắc rằng, điều này chỉ có thể được thực hiện thông qua các thể chế dân chủ, dựa trên công bằng kinh tế và xã hội”.

 

Có vô số lý do để tôn vinh và tri ân Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhưng một trong những lý do nổi bật nhất là năng khiếu dân chủ của Ngài. Được thiết lập đầu tiên vào sau giữa thế kỷ 20, những thập niên 1960, hệ thống dân chủ Tây Tạng được người dân Tây Tạng nhìn nhận, và khẳng định là một hệ thống chính quyền do Đức Đạt Lai Lạt Ma thiết lập, và chung tay xây dựng. Kể từ đó trong 60 năm qua, Cơ quan Hành chính Trung ương Tây Tạng, trước đây được gọi là Chính phủ Tây Tạng lưu vong, đã hình thành và phát triển bền vững trong những bước nhảy vọt.

 

Lần đầu tiên trong lịch sử những người tỵ nạn trên toàn thế giới, một nhóm nhỏ dân cư lưu vong phải đối mặt với vô số tội ác không thể vượt qua, từ cuộc xâm lược quê hương, và cuộc đàn áp có hệ thống đối với con người, và bản sắc của họ, đã có thể phát triển một nền dân chủ có sự tham gia thịnh vượng, mà còn nguyên cội nguồn văn hóa của nó.

 

Câu chuyện thành công của nền dân chủ Tây Tạng lưu vong này, là một sự tôn vinh đối với tầm nhìn song sinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma về việc Dân chủ hóa cộng đồng lưu vong, để bảo vệ bản sắc văn hóa của họ, và đặt nền tảng dân chủ cho một Tây Tạng tự do trong tương lai.

 

Chưa đầy một năm sau khi lưu vong tại đất Ấn Độ, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói rõ rằng hệ thống Tây Tạng không giống như trước đây, phải là Dân chủ, nơi Tôn giáo và Chính thể sẽ cùng tồn tại trong sự hòa hợp hoàn hảo. Do đó, vào ngày 2 tháng 9 năm 1960, các đại biểu được bầu đầu tiên của Quốc hội Tây Tạng lưu vong (sau đó được gọi là Ủy ban Đại biểu Nhân dân Tây Tạng) đã tuyên thệ tuyệt vời, và khánh thành hệ thống Dân chủ Tây Tạng.

 

Nhân dân Tây Tạng diễm phúc được sự dẫn dắt của Đức Đạt Lai Lạt Ma, vị lãnh đạo tinh thần dân tộc tuyệt hảo, đã thực hiện một bước tiến lớn đối với nền dân chủ khi bầu các đại diện nữ giới đầu tiên vào Quốc hội, Cơ quan Lập pháp cao nhất. Tiếp theo là sự bao gồm của các đại diện truyền thống Bon. Một trong những mối quan tâm cốt lõi trong thời kỳ đầu của Đức Đạt Lai Lạt Ma, là để một Chính phủ Tây Tạng có thể thích ứng với thời hiện đại và như vậy, Hiến chương của Nhân dân Tây Tạng lưu vong đã được thông qua, luật tối cao điều chỉnh các chức năng của tổ chức Chính Quyền Trung Ương Tây Tạng (Central Tibetan Administration CTA). Với việc Quốc hội Tây Tạng lưu vong chính thức và Kashag (Nội các), và Ủy ban Tư pháp Tối cao Tây Tạng được thành lập vào năm sau, ba trụ cột của nền Dân chủ sau đó đã được hoàn thành.

 

Sự Dân chủ hóa của Nhân dân Tây Tạng lưu vong càng phát triển, khi Đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố tình trạng của Ngài là bán nghỉ hưu, và kêu gọi cuộc bầu cử trực tiếp đầu tiên của Kalon Tripa, người đứng đầu điều hành của Cục Quản lý Trung ương Tây Tạng.

 

Trong những gì là đỉnh cao của hơn 50 năm nỗ lực không ngừng, trong việc giám sát Chính thể Tây Tạng thành một nền Dân chủ thực sự, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thực hiện bước cuối cùng hướng đến Dân chủ hóa hoàn toàn cho Nhân dân Tây Tạng lưu vong, và trao lại quyền lực chính trị cho Thủ tướng Chính phủ Tây Tạng lưu vong (Sikyong), Tiến sĩ Lobsang Sangay, các nhà lãnh đạo Chính trị được bầu dân chủ của nhân dân Tây Tạng (trước đây gọi là Kalon Tripa).

 

Năm 2011, trong bài phát biểu mang tính biểu tượng, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói: “Sự cai trị của các vị Quốc vương thời quân chủ  và các nhân vật tôn giáo lỗi thời. Chúng ta phải theo xu hướng của thế giới tự do, đó là xu hướng của nền Dân chủ”.

 

Vào thời điểm mà mọi người đang đặt mạng sống của mình cho  dân chủ trong cuộc Cách mạng Hoa Lài, với các nhà lãnh đạo đổ máu để nắm giữ quyền lực, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã giao tất cả quyền lực chính trị của Ngài cho các nhà lãnh đạo Tây Tạng được bầu chọn một cách dân chủ, từ chối hành nghìn người đang bế tắc, kiến nghị của nhân dân Tây Tạng ở quê nhà Tây Tạng và trên toàn thế giới.

 

(Cuộc Cách mạng Hoa Lài là cuộc cách mạng dân chủ phi bạo lực của nhân dân Tunisia, được đặt tên theo loài hoa của quốc gia, nổi dậy khiến Tổng thống Zine El Abidine Ben Ali của nước này bị lật đổ. Tổng thống Ben Ali từ chức sau 23 năm đương nhiệm.)

 

Lãnh đạo Tổ chức Chính Quyền Trung Ương Tây Tạng (Central Tibetan Administration CTA) ngày nay do Tiến sĩ Lobsang Sangay, các nhà lãnh đạo Chính trị được bầu dân chủ của nhân dân Tây Tạng, hoạt động với tất cả các thuộc tính của một nền Hành chính Dân chủ Tự do, bao gồm ba trụ cột là Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp cũng như các Cơ quan Tự trị. Sau khi cam kết hoàn toàn với con đường của hệ thống dân chủ, nhân dân Tây Tạng lưu vong và trên toàn thế giới, một lần nữa chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử năm 2021, nơi họ sẽ bầu một Thủ tướng Chính phủ Tây Tạng lưu vong (Sikyong) mới và các thành viên của Quốc hội Tây Tạng.

 

Sự công nhận toàn cầu mà nền dân chủ Tây Tạng non trẻ tiếp tục thu hút khắp nơi trên thế giới, thể hiện tầm nhìn trước mắt và tối tôn tối thượng của Đức Đạt Lai Lạt Ma đối với nhân dân Tây Tạng lưu vong và cho Tây Tạng trong tương lai.

 

Trong sự tôn vinh đáng chú ý nhất đối với những thành tựu dân chủ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Tổng thống thứ 45 của Kỳ Donald Trumq đã ký Đạo luật Chính sách và Hỗ trợ Tây Tạng năm 2020 (Tibetan Policy and Support Act of 2020) thành luật trong tháng này. Đạo luật khen ngợi Đức Đạt Lai Lạt Ma “vì quyết định trao quyền cho các nhà lãnh đạo được bầu theo các nguyên tắc Dân chủ”, và hơn thế nữa, chính thức thừa nhận Tổ chức Chính Quyền Trung Ương Tây Tạng (Central Tibetan Administration CTA), là một tổ chức hợp pháp, phản ánh nguyện vọng của cộng đồng người Tây Tạng trên toàn thế giới và vị Thủ tướng Chính phủ Tây Tạng lưu vong (Sikyong) như Chủ tịch của CTA.

 

Trong Hướng dẫn về Chính sách và Đặc điểm  Cơ bản của Hiến pháp Tây Tạng trong tương lai năm 1992, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói: “Nếu Tây Tạng muốn tồn tại với tư cách là một thành viên bình đẳng của cộng đồng quốc tế hiện đại, nó phải phản ánh tiềm năng chung của tất cả công dân của nó, và không dựa vào một cá nhân. Nói cách khác, mọi người phải tích cực tham gia vào việc vạch ra vận mệnh chính trị và xã hội của chính họ. Sự công nhận của Hoa Kỳ đối với những nỗ lực không mệt mõi, và tầm nhìn xa trông rộng của Đức Đạt Lai Lạt Ma, trong việc giám sát Chính thể Tây Tạng lưu vong thành một nền Dân chủ thực sự, nhằm nhắc nhở những nhà lãnh đạo độc tài Đảng Cộng sản Trung Quốc,  bởi tầm nhìm của Đức Đạt Lai Lạt Ma về một Tây Tạng Dân chủ trong tương lai”.

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Central Tibetan Administration)




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/02/2021(Xem: 5195)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5611)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4475)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5055)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 4626)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5323)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
14/02/2021(Xem: 4818)
Phật giảng thuyết có ba phương cách: a. Giảng trực tiếp như các kinh đạo Phật Nguyên thủy, b. Giảng bằng phủ định, từ chối là không và phủ định hai lần là xác định tuyệt đối. c. Giảng bằng biểu tượng, đưa câu chuyện cánh hoa sen hay viên ngọc trong túi người ăn mày để biểu tượng hoá ý nghĩa sâu xa của kinh. Phương cách thứ ba này là kinh Pháp Hoa. Có nhiều biểu tượng nhưng nổi bật nhất là cánh hoa sen là biểu tượng kinh Pháp Hoa.
10/02/2021(Xem: 9532)
Long Khánh là một thị xã ven Đô, Phật giáo tuy không sung túc như các Tỉnh miền Trung Nam bộ, nhưng sớm có những ngôi chùa khang trang trước 1975, do một số chư Tăng miền Trung khai sơn lập địa. Hiện nay Long Khánh có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Hiển Mật hay còn gọi là chùa Ruộng Lớn tọa lạc tại Thị xã Long Khánh, chùa Huyền Trang, tọa lạc tại ấp Bàu Cối, xã Bảo Quang,.…Nhưng điều đáng nói là một ngôi Tam Bảo hình thành trong vòng 5 năm,khá bề thế. Qua tổng thể kiến trúc và xây dựng, không ai ngờ hoàn hảo trong thời gian cực ngắn, đó là Tịnh xá Ngọc Xuân, do sư Giác Đăng,đệ tử HT Giác Hà, hệ phái Khất sĩ, thuộc giáo đoàn 5 của Đức thầy Lý.
08/02/2021(Xem: 4908)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4143)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]