Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Năm Sửu Nói Chuyện Chăn Trâu - Thập Mục Ngưu Đồ

04/01/202120:43(Xem: 7632)
Năm Sửu Nói Chuyện Chăn Trâu - Thập Mục Ngưu Đồ

NĂM SỬU NÓI CHUYỆN CHĂN TRÂU

 

THẬP MỤC NGƯU ĐỒ

 

 Thập Mục Ngưu Đồ

 

 

          Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì  đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.

         “Thập mục ngưu đồ” nghĩa là “mười bức tranh chăn trâu”, mười bức tranh liên hoàn làm nên một bộ tranh đã mượn hình tượng một người mục đồng (chăn trâu) và một con trâu, để nói về “thuật luyện tâm” của nhà Phật.  Hình ảnh người mục đồng tượng trưng cho Giới thể, cho Thiền Định,  cho Chánh Trí, nói chung là cho Chánh pháp của Phật. Con trâu tượng trưng cho cái Tâm của chúng sinh, cái Tâm ấy là cái Tâm vọng tưởng, Tâm phân biệt, chất chứa đầy phiền não, mê lầm và dục vọng. Chúng sinh lấy giáo pháp chân chính của Đức Phật để chữa trị, để xua tan, để xóa bỏ, để tống đuổi, để hóa giải, bao sự mê lầm và dục vọng thì cũng giống như người mục đồng trị con trâu hoang dã đầy tật chứng vậy!

         Theo nhiều kinh sách nhà Phật, thì “Thập mục ngưu đồ” đã có từ rất lâu, không xác định được là từ thời nào, và ai là tác giả đã “hạ thủ công phu”. Thoạt tiên, bộ tranh chỉ có sáu bức (lục mục ngưu đồ), qua nhiều biến động thăng trầm nên bị tuyệt tích. Đến thế kỷ thứ XII, người ta mới thấy nhiều bộ tranh “Thập mục ngưu đồ” khác nhau xuất hiện ở các chốn già lam, thiền viện, và những bộ tranh này cũng phản ảnh được nhiều khuynh hướng khác nhau trong sự tu hành tu tập, không thống nhất một cách khô khan cứng nhắc, mà lại uyển chuyển sáng tạo, tùy duyên truyền pháp. Tuy khác nhau, nhưng tất cả các bộ tranh đều có đủ mười bức, song hành cùng với mỗi bức tranh trong bộ là một bài kệ (để tụng) bằng thể thơ tứ tuyệt, đồng thời kèm theo thêm một đoạn văn xuôi chú giải cho cả tranh và bài kệ. Trong số những bộ tranh “Thập mục ngưu đồ” được lưu truyền  từ đó đến nay, có hai bộ tranh được truyền tụng nhiều nhất, vượt trội hơn hẳn ở bút pháp lẫn cú pháp, đó là tranh của hai họa sĩ –tu sĩ áo nâu Thanh Cư và Quách Am. Hai bộ tranh này được truyền tụng phổ biến đến nay, được xem là hai “đại diện tiêu biểu” của hai khuynh hướng Đại Thừa và Thiền Tông của Phật giáo.
Thập Mục Ngưu Đồ-Dai-Thua

         Nay, nhân năm Tân Sửu cầm tinh con Trâu, chúng ta thử hãy nhìn ngắm rồi từng bước theo chân mục đồng cùng con trâu, để tìm hiểu sơ qua về hình thức lẫn tinh thần của cả hai bộ tranh này. Riêng bài kệ Hán ngữ của từng bức tranh, đã được dịch ra cho rõ nghĩa đưa ra trong bài viết này, xin dựa theo cuốn “Tranh chăn trâu giảng giải” của Hòa thượng Thích Thanh Từ -Viện chủ Trúc Lâm Thiền Viện:

  • Bộ tranh mang khuynh hướng Đại Thừa:
  1. Vị mục: chưa chăn. Hình ảnh con trâu đang tung tăng chạy lông nhông, do xưa nay đã  được buông thả quá lâu, gần như là trở thành hoang dã, ngang bướng hung hăng. Bài kệ rằng: “Đầu sừng nghênh ngóng mặc kêu vang/ Dong chạy núi khe dẫm đạp càn/ Một mảnh mây đen che cửa động/ Ai hay bước bước phạm mạ vàng”. Kiểu này, người mục đồng muốn bắt trâu ắt phải chấp nhận đương đầu với khó khăn khổ nhọc.
  2. Sơ điều: mới chăn. Hình vẽ cho thấy mục đồng đã xỏ được mũi con trâu, nhưng con trâu vẫn đang còn hung hăng lồng lộn, muốn giựt dây vàm mà chạy. Bài kệ: “Ta có dây vàm xỏ mũi mi/ Lôi đầu không chịu, đánh liền đi/Từ nay thôi nghịch thường dong chạy/ Vẫn bị mục đồng tận lực ghì”. Mục đồng bấy giờ phải tỏ ra nghiêm khắc, tay nắm chặt day vàm, tay giá lên ngọn roi như để hăm dọa, cảnh cáo con trâu.
  3. Thụ chế: chịu phép. Con trâu bấy giờ có lẽ đã đau điếng vì dây vàm kéo lỗ mũi, lại sợ lãnh thêm những đòn roi, nên bắt đầu tuân phục. Bài kệ: “Tạm hàng tạm phục hết ngoằn ngoèo/Lội nước xuyên mây bước bước theo/ Tay nắm dây vàm không chút hở/Mục đồng ngày trọn rất gieo neo”. Tuy là con trâu hết chạy tới chạy lui hung hăng hùng hổ, nhưng mục đồng vẫn phải nắm chặt dây vàm mà kéo nó đi, chưa dám thả.
  4. Hồi thủ: quay đầu. Con trâu đã được huấn luyện thuần thục, quay đầu lại nhìn mục đồng, nhờ vậy dây vàm được nới lỏng đi chút ít. Bài kệ: “Ngày lắm, công sâu chịu quay đầu/ Lực tâm cuồng loạn tạm điều nhu/Mục đồng chưa nhận là hoàn hảo/Nắm chặt dây vàm cột hẳn đây”. Tuy thấy trâu đã lành, nhưng mục đồng vẫn chưa tin tưởng lắm, vẫn phải để ý coi ngó, cột đầu dây vào gốc cây cùng trâu nghỉ ngơi sau một chặng đường mệt nhọc.
  5. Tuần phục: vâng chịu. Con trâu đã thuần hẳn, mục đồng đi đâu thì trâu ngoan ngoãn bước đủng đỉnh theo đó. Bài kệ: “Dương xanh bóng mát tựa bờ khe/ Kéo lại buông đi thấy nhẹ te/Mây biếc trời chiều cỏ thơm ngát/Mục đồng nhàn nhã vẫn theo về”. Giờ thì mục động nhẹ nhõm, không buộc dây vào mũi trâu nữa, thả cho trâu đi thoải mái tự do theo mình. Đến đây là đã tu được nửa chặng đường, nhãn rỗi rồi đó!
  6. Vô ngại: không ngại. Trâu đã khôn ngoan hiền lành, không còn phải lo sợ, cũng không cần phải chăn giữ nghiêm ngặt nữa. Bài kệ: “Đất trống ngủ yên ý tự an/ Chẳng cần roi mũi mãi thanh nhàn/Tùng xanh dưới gốc mục đồng nghỉ/Một bản thăng bình rất hân hoan”. Mục đồng có quyền mặc sức tiêu dao, ngồi một nơi trống trải mà thổi sáo hát hò.
  7. 7.     Nhậm vận: tha hồ.  Hình vẽ cho thấy mục đồng thoải mái nằm ngủ trên phiến đá, con trâu vẫn quấn quít một bên không rời xa, luôn hướng nhìn về người chăn dắt nó. Bài kệ:“Bờ liễu hồ xuân tịch chiếu trung/Khói mờ cỏ tốt đẹp như nhung/Đói ăn khát uống tùy thời đấy/ Bàn thạch mục đồng ngủ thật ngon”. Giấc ngủ của mục đồng chắc chắn là thật ngon, bởi không lo sợ bị mất trâu đi đâu cả, quá thảnh thơi!
  8. Tương vong: cùng quên. Trâu đứng một nơi, mục đồng đứng một nơi, cả hai không còn để ý đến nhau, quên nhau cả rồi. Bài kệ: “Bạch ngưu thường tại mây trắng nằm/Người tự không tâm trâu cũng đồng/Mây trắng trăng soi bóng càng trắng/ Trăng trong mây trắng tự tây đông”. Tuy trâu và mục đồng đã quên nhau, tâm và mình chưa nhập một, nhưng cả hai đều đã được an lạc thảnh thơi.
  9. Độc chiếu: soi riêng. Hình bóng của trâu đã biến mất. Chỉ còn mục đồng đứng vỗ tay hát hò giữa đất trời sáng một vầng trăng. Bài kệ: “Con trâu đã mất, mục đồng nhà/ Một mảnh mây đơn chắn không gian/ Vỗ nhịp hát ca dưới trăng sáng/Trở về còn có một cổng ngang”. Trâu đã đồng ý với mục đồng thì trâu tức là mục đồng, mục đồng tức là trâu, nên không nghĩ đến trâu nữa.
  10. 10.  Song dẫn: dứt cả hai. Hình vẽ trống không, không một vết tích gì của người lẫn cảnh. Trâu không còn thì mục đồng cũng không thành mục đồng. Bài kệ: “Người trâu chẳng thấy, dấu đều không/Bàng bạc ánh trăng muôn tượng vong/Muốn hỏi trong kia đâu ý chánh/Hoa đồng cỏ nội chẳng ai trông”. Chỉ còn đó một vòng tròn tượng trưng cho Chân Như sáng suốt, tu đến đây tức là đã giác ngộ viên mãn.
  • Bộ tranh mang khuynh hướng Thiền Tông:

1-    Tầm ngưu: tìm trâu. Con trâu được buông thả lâu ngày nên đi biệt tăm mất dạng, mục đồng bây giờ phải cất công mất sức lần dò đi tìm. Bài kệ: “Nao nao vạch cỏ kiếm tìm trâu/Núi thẩm đường xa nước lại sâu/Kiệt sức mệt nhoài tìm chẳng thấy/Chỉ nghe véo vắt giọng ve sầu”.

2-    Kiến tích: thấy dấu. Mục đồng đã thấy dấu vết chỗ trâu chạy qua, liền lần mò đi theo. Bài kệ: “Ven rừng bến nước dấu liên hồi/Vạch cỏ ruồng cày thấy được thôi/Ví phải non sâu lại sâu thẳm/Ngất trời lỗ mũi hiện ra rồi”.

3-    Kiến ngưu: thấy trâu. Mục đồng đã trông thấy con trâu, vội ra sức đuổi bắt. Bài kệ: “Hoàng anh cất tiếng hót trên cành/ Nắng ấm gió hòa bờ biển xanh/Chỉ thế, không nơi xoay trở lại/ Đầu sừng rành rõ vẽ khôn thành”. Đến đây chỉ mới qua chặng đường tìm và thấy trâu, người tu phải biết mình đang cần phải làm gì bước tiếp theo.

4-    Đắc ngưu: được trâu. Mục đồng đã bắt được trâu, nhưng con trâu hung hăng không chịu, cứ muốn bỏ chạy đi về với cuộc sống hoang dã. Mục đồng phải ra sức trì kéo, giằng lôi lại rất khó nhọc, khổ sở. Bài kệ: “ Dùng hết thần thông bắt được y/Tâm hùng sức mạnh khó khăn ghì/Có khi vừa hướng cao nguyên tiến/Lại xuống khói mây mãi nằm ì”.

5-    Mục ngưu: chăn trâu. Con trâu đã chịu cho mục đồng chăn dắt, nhưng mục đồng vẫn phải nắm chặt dây vàm kéo mũi trâu đi, đồng thời tay cầm roi gí giá coi chừng trâu trở chứng. Bài kệ: “Nắm chặt day roi chẳng lìa thân/ Ngại y chạy sổng vào bụi trần/Chăm chăm chăn giữ thuần hòa đã/ Dây mũi buông rồi vần theo gần”.

6-    Kỵ ngưu quy gia: cưỡi trâu về nhà. Trâu đã thuần, không còn chạy bậy, hết cảnh giằng lôi giữa trâu và người, mục đồng cưỡi trâu đủng đỉnh thủng thẳng về nhà. Bài kệ: “Cỡi trâu thong thả trở về nhà/Tiếng sáo vi vu tiễn vãn hà/Một nhịp một ca vô hạn ý/Tri âm nào phải động môi à”.

7-    Vong ngưu tồn nhân: quên trâu còn người. Trong tranh đã không còn dáng của trâu nữa, chỉ còn người ngồi thảnh thơi một mình dưới ánh trăng thanh. Không nhắc đến trâu nữa vì trâu và người đã cùng đồng ý đồng tâm. Bài kệ:“Cỡi trâu về thẳng đến gia san/Trâu đã không rồi người cũng nhàn/Mặt nhật ba sào vẫn say mộng/ Dây roi dẹp bỏ bên cạnh sàng”. Đã không còn trâu nữa thì dây roi còn giữ làm gì? Buông ném luôn cho rãnh tay, mà lòng còn nhẹ tênh.

8-    Nhân ngưu câu vong: người trâu đều quên. Đến đây thì cả trâu và người đều mất dạng, chỉ còn lại một vòng tròn trống rỗng. Bài kệ: “ Roi gậy người trâu thảy đều khônẩTời xanh thăm thẳm tin chẳng thông/Lò hồng hừng hực nào dung tuyết/Đến đó mới hay hiệp Tổ Tông”. Khi sự mê lầm và dục vọng của mình đã tiêu tan biệt mất thì ngay cả Pháp Phật cũng không cần nói đến nữa.

9-    Phản bản hoàn nguyên: trở về nguồn cội.  Bây giờ trong tranh lại hiện lên một cõi thanh tịnh với  suối reo, cây lá đang rụng rơi xuống gốc. Bài kệ: “Phản bổn hoàn nguyên đã phí công/ Đâu bằng thẳng đó tợ mù câm/ Trong am chẳng thấy ngoài vật khác/ Nước tự mênh mông hoa tự hồng”. Người đã trở về với bản nhiên thanh tịnh, tức là nhập vào cảnh giới của Phật.

10-            Nhập lư thùy thủ: thõng tay vào chợ. Người lại xuất hiện trong tranh, đang chống gay mang bầu rượu trở về nhà, vào ra phố chợ như bao người khác, sống giữa cuộc đời mà vẫn giữ được cái tâm thanh tịnh, cái tâm đã chứng ngộ Niết Bàn. Bài kệ: “Chân trần bày ngực thẳng vào thành/Tô đất trét bùn nụ cười thanh/Bí quyết thần tiên đâu cần đến/ Cây khô cùng khiến nở hoa lành”. Tu đến đây là đạt được an nhiên tự tại, Niết Bàn ở ngay dưới mỗi bước chân rồi!

      Xem đối chiếu hai bộ tranh của hai khuynh hướng, chúng ta thấy hình ảnh mục đồng rất khác biệt, bên Đại Thừa thì mục đồng đã lớn, già dặn, cứng cáp tay chân; còn bên Thiền tông thì chỉ là một chú bé chăn trâu đầu để chỏm, mặt mũi còn non choẹt. Hình ảnh con trâu cũng có khác đi, trâu bên tranh Đại Thừa có mình đen rồi dần dần trắng cho đến toàn trắng; trâu bên tranh Thiền Tông thì đen thủi đen thui, to tê kềnh càng hơn. Tất cả đều có ẩn ý, tùy theo ý niệm và căn cơ của từng người và từng pháp môn tu hành, nhưng tựu trung đều không đi ra ngoài Giới- Định- Huệ của giáo lý nhà Phật.

 

TÂM KHÔNG- VĨNH HỮU

 

 

Liên hệ:

VĨNH HỮU

Tổ 1 - Thôn Vĩnh Điềm Trung – Xã Vĩnh Hiệp

TP. Nha Trang – Khánh Hòa ĐT: 0902010763

 

 

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/11/2017(Xem: 8079)
Hành Trình Về Con Đường Giáo Dục Của Phật Giáo, Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về. Trên từ những vị xuất gia, dưới đến vua, quan và thứ dân, ai ai cũng một lòng quy ngưỡng về giáo lý thậm thâm vi diệu ấy. Mục đích chính của việc tu tập là thoát ly khỏi cảnh giới khổ đau nầy, để trở về với bản lai diện mục thanh tịnh, giải thoát của mỗi người. Đức Phật cũng đã từng nói rằng: “Ta chỉ là một Đạo Sư”, nghĩa là một kẻ dẫn đường. Kẻ dẫn đường ấy chính là Thầy của chúng ta và bất cứ ai trong đời nầy dẫn được ta đi vào Đời hay vào Đạo đều là Thầy của chúng ta cả.
30/10/2017(Xem: 11801)
Giữa tháng 9 năm 2017, chúng tôi đi Paris, nước Pháp, để thăm gia đình và bạn bè, đã 10 năm chưa có dịp gặp lại. Thi và tôi đã để ra 3 ngày đi thăm vợ chồng người bạn của Thi khi còn học ở trường Trung học Gia Long - Saigon, vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. Chị Hồng và anh Ngọc đang ở tại thành phố Oberhausen. Đây là thành phố nằm trong vùng kỹ nghệ sông Ruhr thuộc tiểu bang NordRhein- Westfalen, phía Tây-Bắc nước Đức.
30/10/2017(Xem: 10550)
Dưới đây là bài viết của Lạt-ma Denys tóm lược một số các bài thuyết giảng của chính tác giả tại ngôi chùa Tây Tạng Karma Ling, tọa lạc trong vùng núi Alpes trên đất Pháp. Bài viết nêu lên một sự hiểu biết mang một tầm quan trọng vô song trong Dharma/Đạo Pháp của Đức Phật, đó là khái niệm "Tương liên, tương tác và tương tạo" giữa tất cả mọi hiện tượng dù vô hình hay hữu hình, thuộc thế giới bên ngoài hay bên trong tâm thức một cá thể. Tiếng Pa-li gọi khái niệm này là Paticca-samuppada, tiếng Phạn là Pratitya-samutpada, tiền ngữ "pratitya" có nghĩa là "lệ thuộc vào" [một thứ gì khác], hậu ngữ "samutpada" có nghĩ là "hiện lên" hay "hình thành"..., Các ngôn ngữ Tây Phương gọi khái niệm này là: Interdependence, dependent origination, dependent arising, dependent co-production, conditioned co-production, conditioning co-production, v.v.; kinh sách Hán ngữ gọi là "Lý duyên khởi". Có thể tạm dịch sang tiếng Việt là "Nguyên lý tương liên, tương tác và tương tạo", tuy nhiên cũng có thể gọi vắn
27/10/2017(Xem: 10900)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ. Nhỏ như chuyện bất hoà khó chịu xảy ra liên tục với người xung quanh. Nhỏ như yêu thương người này ghét bỏ người kia một cách tự nhiên, hay người này cực khổ chăm sóc nuôi dưỡng người kia mà bị người kia càm ràm nặng nhẹ gây khó dễ hết chuyện này sang chuyện khác, hoặc chính bản thân mình đau ốm bệnh hoạn triền miên chạy chữa khắp nơi mà không dứt bệnh. Lớn như chuyện con cái trong nhà không nghe lời dạy dỗ của cha mẹ, ra ngoài xã hội quậy phá phạm luật chịu cảnh tù tội khiến kẻ làm cha làm mẹ chịu nhiều lo âu và đau khổ.
26/10/2017(Xem: 10197)
Tông Câu-xá ngày nay không còn, mặc dù trước kia, tông ấy đã có một thời hưng thịnh với rất nhiều người tu tập theo. Tuy nhiên, ảnh hưởng sâu sắc của tông này cho đến nay vẫn còn rất rõ rệt trong Phật giáo. Tên gọi Câu-xá của tông này vốn được phiên âm từ tiếng Phạn là Kośa, có nghĩa là “kho báu”. Đây cũng là tên gọi một bộ luận nổi tiếng của Bồ Tát Thế Thân. Tên tiếng Phạn của bộ luận này là Abhidharmakoa-stra, phiên âm là A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận, và là giáo lý căn bản của Câu-xá tông. Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ. Ngài là em ruột của Bồ Tát Vô Trước, người đã sáng lập ra Duy thức tông. Câu-xá tông là một tông thuộc Tiểu thừa, trong khi đó Duy thức tông là một tông Đại thừa. Ban đầu, ngài Thế Thân học theo giáo lý Tiểu thừa, thuộc Nhất thiết hữu bộ, là một trong 18 bộ phái Tiểu thừa đầu tiên của Ấn Độ đã phân chia sau khi Phật nhập diệt khoảng gần 200 năm. Ngà
23/10/2017(Xem: 29855)
Tin vui: Tế bào ung thư bị tiêu diệt trong 42 ngày bằng ly nước ép đã thành công ngoài mong đợi, cả thế giới đang mở tiệc để ăn mừng, Rudolf Breuss đã dành cả cuộc đời để tìm cách chữa bệnh ung thư và cuối cùng vị nhân sĩ người Áo này đã thành công.
23/10/2017(Xem: 102491)
Gần hai tuần qua chúng ta nghe tin tức phóng sự trên các hệ thống truyền thanh và truyền hình trên toàn quốc Hoa Kỳ về cảnh cháy rừng khủng khiếp ở vùng bắc San Francisco bang California. Theo báo cáo cách đây 4 ngày thì khoảng 250,000 km2 diện tích bị cháy (tương đương với diện tích tiểu bang New York). Nhà cửa bị cháy, 43 người chết, hơn 200 người mất tích, và gần 40,000 người phải di tản. Hiện nay đám cháy vẫn còn tiếp diễn nhưng ở một vài nơi cư dân di tản đã được phép trở về lại nhà của mình.
17/10/2017(Xem: 9129)
Văn hóa Phật giáo tại hội sách Frankfurt Book Fair lớn nhất thế giới 2017 Đây là lần đầu tiên 2 chúng tôi đi Đức và cũng là lần đầu tiên đến với hội sách lớn nhất thế giới Frankfurt Book Fair. Chúng tôi lại được Thầy của chúng tôi, TS Nguyễn Mạnh Hùng trực tiếp dẫn đi. Một tuần ở hội sách chúng tôi mệt lừ nhưng ai cũng hạnh phúc vì chúng tôi học được rất nhiều và hơn thế nữa những trải nghiệm từ nhiều góc độ làm chúng tôi trưởng thành hơn. Nhưng trong bài này, chúng tôi chỉ chia sẻ 1 góc rất nhỏ về văn hóa Phật giáo ở đây trong những ngày qua.
17/10/2017(Xem: 8246)
Niềm vui của việc gặp gở những người ta yêu, nổi buồn của việc mất mát người thân, sự phong phú của của những giấc mơ đầy sức sống, sự an bình của những bước chân qua khu vườn vào một ngày xuân, sự hoàn toàn an định trong một thể trạng thiền tập sâu xa – những thứ này và những thứ nọ giống như chúng cấu thành một thực tại kinh nghiệm của chúng ta về [tâm] thức. Bất chấp nội dung của bất cứ kinh nghiệm nào trong ấy là gì, thì không ai trong tâm nhạy cảm của họ có thể nghi ngờ về thực tại ấy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]