Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu

03/01/202118:44(Xem: 9222)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu

MỘT SỐ DANH TĂNG VIỆT NAM TUỔI SỬU

 

  • Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049): không rõ tục danh, chỉ biết Sư họ Vạn, người  ở vùng Luy Lâu -trung tâm cổ của Phật giáo Việt Nam (Bắc Ninh)- xứ Kinh Bắc. Năm 20 tuổi, Sư xuất gia thọ giới với Hoà thượng Sùng Phạm ở chùa Pháp Vân, thuộc thế hệ thứ 17 dòng Thiền Nam Phương. Sau, Sư làm trú trì chùa Tổ Phong trên núi Thạch Thất (Sơn Tây) hoằng dương đạo pháp, khai tâm điểm đạo cho chúng đồ. Không chỉ giảng pháp độ sanh, Sư còn sáng tác nhiều thơ ca thanh thoát và bài kệ uyên thâm, nhưng đã bị thất lạc gần hết. Sư còn lưu lại bài kệ cho môn đồ pháp quyến: “Có tử, ắt có sinh/Có sinh, tử phải có/ Sinh thì đời reo mừng/ Tử thì đời sầu khổ/Mừng khổ đều vô cùng/ Vẫn xoay hoá kia nọ/Bao giờ sinh tử đều không màng/Úm tô rô, ta vào cõi thọ!”, rồi ra đi vào năm 1117, thọ 68 tuổi.
  • Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121): thế danh Phí Hoàn, quê ở làng Cổ Giao-Long Biên, thuộc thế hệ 17 dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi. Sư xuất gia thọ giới với Thiền Sư Đạo Lâm ở chùa Long Vân, được truyền tâm ấn và ban cho pháp danh là Tịnh Thiền với ý nghĩa “Tịnh là trí tịnh tròn đầy huyền diệu. Thiền là tâm thiền lặng lẽ”. Sau khi  Thiền sư Đạo Lâm viên tịch, Sư ngao du khắp chốn thiền lâm tìm đạo hữu. Sau, trở về bản quán, Sư trùng tu chùa Long Vân rồi trú trì tại đó, chuyên tâm tu tập thiền luật, tham gia các hoạt động lợi tha. Năm 1193,  nhằm niên hiệu Thiên Tư Gia Thuỵ thứ 8, Sư viên tịch, thọ 73 tuổi.
    • Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853): thế danh Võ Minh Thông, tức Võ Bửu Đạt, quê quán ở huyện Bình Long-phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay là xã Xuân Thới Thượng-Hóc Môn-TP.Hồ Chí Minh), pháp hiệu Như Bửu, xuất thân trong một gia đình Nho học kính tin Phật Pháp. Sư có hai người em cũng xuất gia đầu Phật, sau này một vị làm trú trì chùa Phước Tường (Thủ Đức), vị kia trú trì chùa Long Thạnh (Bà Hom). Từ nhỏ, Sư đã tỏ ra thông minh và chăm học, không chỉ  thông làu Tứ Thư -Ngũ Kinh, mà còn giỏi võ nghệ. Được song thân cho xuất gia, quy y thọ giới với  Hoà thượng Minh Phương-Chơn Hương ở chùa Linh Nguyên, làng Đức Hoà. Sau 2 năm tu học nghi thức, Sư được Thầy đưa sang học kinh luật pháp điển với Hoà thượng Minh Vi-Mật Hạnh ở Giác Lâm Cổ Tự trong suốt 6 năm trời. Sau khi Bổn sư viên tịch, Sư lặng lẽ sang chùa Giác Viên xin thọ giáo các vị Hoà thượng Hoằng Ân-Minh Khiêm và Như Nhãn –Từ Phong, tinh tấn nhất tâm tu học và nhanh chóng trở thành một danh tăng thời  bấy giờ. Năm 1879, Sư được cử làm trú trì chùa Linh Nguyên. Năm 1921. Sư về trú trì chùa Long Quang, là ngôi chùa được cải tạo trùng tu từ ngôi nhà của cha mẹ. Do Sư có gia nhập vào tổ chức Thiên Địa Hội vào năm 1926, nên bị thực dân Pháp bắt đày đi Côn Đảo. Ăn cơm muối, mặc áo nâu sồng suốt 4 năm trời, trong lao ngục, sau Sư cùng một số bạn tù kết bè vượt ngục gặp thập phần hung hiểm, nhưng được một thương gia Phật tử thuần thành cứu sống, mang về nhà bảo bọc cung phụng, thay tên đổi họ cho Sư là Võ Bửu Đạt để che mắt nhà cầm quyền. Từ đó, Sư đi ngao du giáo hoá khắp các tỉnh miền Tây Nam Bộ, rồi về lại Sài Gòn vào năm 1949, đến tạm trú và hoằng pháp qua rất nhiều chùa, sau cùng thì trú trì chùa Giác Ngộ (Ngã Sáu Vườn Lài). Năm 1951, Sư được suy tôn làm Pháp Chủ của Giáo Hội Tăng Già Nam Việt. Năm 1953, Sư lui về chùa Long Quang an dưỡng do tuổi cao sức yếu, trùng tu lại ngôi chùa này trong 2 năm, rồi sang làm trú trì chùa Long Nguyên vào năm 1956. Đầu năm 1973, mặc dù tinh thần vẫn sáng suốt, nhưng sức khoẻ của Sư suy kém đi rất nhiều, Sư về chùa Long Quang, suốt 11 ngày chỉ uống nước, kê đơn nằm bên bàn thờ Tổ. Cho gọi các đệ tử khắp nơi về,  Sư đọc bài kệ sau khi khuyên dặn môn đồ pháp quyến về lẽ vô thường, không được sầu khổ lúc tử biệt sinh ly, rồi bảo đánh trống Bát Nhã liên tục từ 15 giờ 30, đến lúc 16 giờ thì Sư an nhiên thị tịch khi trên tay vẫn còn nắm xâu chuỗi, thọ 120 tuổi đời, với 99 tuổi đạo.
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu-HT_Thich_at_Thanh
    • Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877): thế danh Võ Chí Thâm, pháp danh Trừng Thuỷ, pháp tự Chí Thâm, pháp hiệu Giác Nhiên, thuộc thế hệ thứ 42 dòng Thiền Lâm Tế Thiên Thai Sơn, xuất thân từ một gia đình gia phong đạo đức ở làng Ái Tử, huyện Triệu Phong- Quảng Trị. Năm lên 7 tuổi, mang tâm nguyện xuất trần học đạo, Sư đến xin quy y đầu Phật với Hoà thượng Tâm Tịnh tại chùa Tây Thiên Di Đà (Huế), tu học tinh tấn suốt 23 năm. Năm 33 tuổi, Sư được thọ Cụ Túc giới. Năm 1932, Sư cùng chư Tôn đức khác thành lập Hội An Nam Phật Học. Ngoài việc đảm nhiệm chức vụ Chứng minh Đạo sư, Sư còn kiêm nhiệm Giám đốc Phật học đường Tây Thiên-Huế. Hai năm sau, một trong 3 quốc tự lớn nhất ở Huế đương thời là chùa Thánh Duyên đã cung thỉnh Sư về làm trú trì. Năm 1936, triều đình Duy Tân phong cho Sư chức Tăng Cang, Sư đứng ra Chứng minh cho tạp chí Viên Âm, rồi làm trú trì Tổ đình Thuyền Tôn-Huế, Viện trưởng Phật học Viện Trung phần (chùa Hải Đức -Nha Trang-Khánh Hoà). Pháp nạn 1963, khi đã 86 tuổi, Sư chống gậy dẫn đầu đoàn Tăng Ni đòi quyền tự do bình đẳng tôn giáo. Năm 1973, Sư được suy tôn chức Tăng Thống của Giáo hội PGVNTN, nhiều lần làm Đàn đầu Hoà thượng truyền giới cho chúng xuất gia lẫn tại gia tại các giới đàn Hộ Quốc(Nha Trang), Vạn Hạnh (Huế), Vĩnh Gia (Đà Nẵng)… Sau khi đất nước thống nhất, Sư về lại chùa Thuyền Tôn tiếp tục hoằng pháp, không ngưng nghỉ việc giáo huấn và hướng dẫn đồ chúng. Vào ngày 02 tháng 2 năm 1979, Sư  xả bỏ báo thân an nhiên tịch diệt, hưởng thọ 102 tuổi đời, với 69 tuổi đạo.
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu-HT THÍCH GIÁC NHIÊN
    • Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889): thế danh Nguyễn Tấn Tạo, xuất thân từ gia đình trung lưu trí thức ở làng An Thạnh- Lái Thiêu, tỉnh Thủ Dầu Một (Bình Dương). Năm 16 tuổi, Sư xin quy y Hoà thượng Ấn Thành- Từ Thiện ở Thiên Tôn Cổ Tự, được ban pháp danh là Chơn Phổ, bắt đầu tham cứu giáo lý  nhà Phật, tâm đã có ý xuất gia. Khi học thành tài, làm công chức ngành Y tế, chán cảnh danh lợi bon chen, bất mãn chế độ cai trị của thực dân Pháp, Sư đã xin hồi hưu nhân khi mắc trọng bệnh. Năm 1926, tìm đến Giới đàn tại chùa Long Hoa (Bà Rịa-Vũng Tàu) do Hoà thượng Huệ Đăng làm Đàn Đầu truyền giới, Sư xin thọ Cụ túc giới, và cầu pháp với Hoà thượng, được ban pháp danh là Trừng Liến, pháp hiệu Minh Tịnh, nối pháp đời thứ 42 dòng Thiên Thai Tông. Đến năm 1933, Sư được thọ giới lại với Đàn đầu Hoà thượng Ngộ Định- Từ Phong tại giới đàn ở chùa Thiên Tôn, được ban pháp hiệu là Nhẫn Tế, để nối pháp đời thứ 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Sư mang tâm nguyện về cội nguồn Phật Tổ, dựng am Thiên Chơn để chuyên tu, học Anh ngữ, rồi sang Ấn Độ vào năm 1935, học tiếng Tamil ở Nam Ấn, tiếng Hindu ở Bắc Ấn, đến khi sang Bhutan, Tây Tạng thì học thêm tiếng Tây Tạng để dễ tiếp cận kinh điển giáo lý Phật giáo xứ người. Năm 1936, khi đến được tháp Bodha Nath ở Nepal chiêm ngưỡng Xá Lợi Đức Bổn Sư Thích Ca, Sư đã xin thỉnh được một phần Xá lợi để mang về cho Phật tử tại quê hương tôn thờ. Sư chính là người đầu tiên thỉnh được Xá Lợi Đức Phật về Việt Nam. Năm 1936, Sư  đi theo đoàn Lạt Ma từ Bồ Đề Đạo Tràng đến Bhutan trong suốt 2 tháng gian khổ, rồi đi tiếp cả tháng nữa mới đến thủ đô Lhasa của Tây Tạng để tham học Kim Cang Thừa Mật Giáo. Trúng tuyển sau khi trải qua cuộc thi tuyển nghiêm mật khắc khe toàn quốc, tu học một trăm ngày, Sư được Lama Quốc Vương ấn chứng sở đắc thiền quán, truyền cho tâm pháp Kim Cang Thừa và ban cho pháp danh là Thubten Osall Lama. Một năm sau, Sư quy cố hương, dâng cúng ngọc Xá lợi lên Hoà thượng Tổ sư tại chùa Thiên Tôn, rồi về lại Bình Dương trú trì chùa Bửu Hương (thuộc giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương), đổi tên chùa thành chùa Tây Tạng. Năm 1940, Sư xây dựng xong chùa Thiên Chơn (nơi nền cũ của cái  am mà Sư ở ngày trước. Năm 1945, Sư được cử làm Chủ tịch khi tham gia Hội Phật giáo Cứu Quốc Thủ Dầu Một, đóng góp nhiều công lao trong cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân Pháp. Năm 1951, Sư viên tịch tại chùa Tây Tạng, thọ 63 tuổi, 25 hạ lạp. Các tác phẩm Sư để lại cho đồ chúng là: Lăng Nghiêm Tông Thông, Nhật Ký Tham Bái Ấn Độ và Tây Tạng.
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu-HT chơn phổ - Nhan_Te
    • Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901): thế danh Lê Văn Tồn, pháp hiệu Giác Hoà, xuất thân từ một gia đình trung lưu kính tin Tam Bảo ở Sa Đéc- Đồng Tháp. Nhà có 4 chị em (3 nữ 1 nam-Sư là người con thứ 3) đều xuất gia đầu Phật. Năm 15 tuổi đã thọ tam quy ngũ giới với Hoà thượng Thích Thiện An ở Trà Vinh, nhưng do hoàn cảnh gia đình và sự nghiệp trải qua nhiều biến cố, nên đến 54 tuổi Sư mới chính thức xuất gia học Phật tại Tổ Đình Ấn Quang. Lúc 23 tuổi, khi Sư làm Trưởng ty Bưu Điện và Ngân Khố tại tỉnh nhà, được thuận duyên tu trì tại gia và nghiên cứu Phật học, chủ xướng thành lập Tỉnh Hội Phật Học Sa Đéc, xây dựng chùa Hội Quán. Do  biết mình xuất gia muộn, Sư đã dốc tâm tinh tấn tu học, được chư Tôn Đức tại Tổ Đình Ấn Quang trợ duyên, nên chỉ qua một năm đã được thọ giới Sa Di, tiếp đó được đặc cách thọ Tỳ Kheo và Bồ Tát giới. Năm 1957, Sư được Giáo Hội bổ nhiệm trú trì chùa Phước Hoà (Trà Vinh). Năm 1959, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt cử Sư làm Tổng Thư ký-kiêm Thủ quỹ Giáo Hội. Năm 1962, Sư giữ chức vụ Giám viện Phật Học Đường Nam Việt. Thời kỳ Pháp nạn 1963, Sư tham gia đấu tranh cùng chư Tăng Ni để đòi bình đẳng tôn giáo, bị bắt giam tại Chợ Lớn, sau khi được thả thì sức khoẻ đã suy yếu, nên xin về an dưỡng tại Niệm Phật Đường Quảng Đức (Cần Thơ). Từ năm 1964 đến 1966, Sư làm Giáo sư kiêm trú trì Phật Học Viện Phước Hoà, Phó Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tài chánh của Giáo Hội, Chánh đại diện miền Huệ Quang. Năm 1971, Sư lên Lâm Đồng xây dựng Hương Nghiêm Tịnh Viện. Sau năm 1975,  được tín nhiệm đảm trách nhiều chức vụ  quan trọng trong Giáo Hội, cũng như trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Cần Thơ và Hậu Giang, rất nhiều lần Sư được cung thỉnh làm Giới Sư tại các giới đàn… Năm 1988, Sư được Giáo Hội PGVN tấn phong Hoà thượng. Uỷ Ban Trung Ương MTTQVN trao tặng huy chương“Vì sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc”. Vào năm 1990, Sư viên tịch thọ 90 tuổi, 34 tuổi đạo. Các tác phẩm để lại như: Khuyến Phát Bồ Đề Tâm, Thiền Môn Trường Hàng Luật, Sưu Tập Giảng Luận Giáo Lý …
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu-HT. THÍCH BỬU LAI
    • Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925): thế danh Đoàn Văn An, quê quán ở làng An Truyền- Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Thân phụ của Sư chính là Thượng toạ Thích Tiêu Diêu, bậc chơn tăng sau này đã vị pháp thiêu thân tử đạo (vào thời kỳ Pháp nạn 1961-1963). Nhờ thuận duyên sinh ra trong gia đình có truyền thống kính tin Phật pháp, từ thuở nhỏ Sư đã thấm nhuần câu kinh tiếng kệ, thuần thục oai nghi. Năm lên 10 tuổi, theo bước thân phụ, Sư xin quy y xuất gia tại chùa Báo Quốc với Hoà thượng Phước Hậu, được ban cho pháp danh là Thiên Ân. Năm 16 tuổi, Sư được thọ giới Sa di, 23 tuổi thọ Cụ túc giới, và năm  29 tuổi được chư Tôn đức trợ duyên cho sang Nhật du học nhờ sở học xuất chúng. Sau 6 năm sôi kinh nấu sử, Sư đậu Tiến sĩ Văn chương, về nước đi giảng dạy tại các trường đại học. Với đại nguyện mở trường đại học riêng cho Phật giáo nước nhà, Sư  lại sang Nhật Bản để học theo pháp môn Thiền Rinzai chính thống đến khi hoàn mãn. Do gặp kỳ Pháp nạn 1963, Sư về nước tham gia cuộc đấu tranh chống kỳ thị tôn giáo, bị chính quyền họ Ngô bắt giam cùng đông đảo chư Tăng Ni. Năm 1964, Sư được Giáo Hội PGVNTN cử làm Ủy viên Phật học vụ, đồng thời làm Giáo thọ Trưởng Viện Cao đẳng Phật học. Năm 1966, Sư được mời sang Mỹ giảng dạy bộ môn ngôn ngữ và triết học tại Đại học đường Nam California,  và cả phương pháp thực hành thiền định cho sinh viên, lập nên nhóm Nghiên cứu Phật học đầu tiên tại trường này. Sư được xem là Thiền sư đầu tiên hoằng pháp tại nước Mỹ, thành lập Trung tâm Thiền học Quốc tế ở Los Angeles hướng dẫn sinh viên Mỹ học Thiền Nhật Bản, thâu nhận rất nhiều đệ tử xuất gia. Thuận duyên, Sư xây dựng ngôi chùa đầu tiên trên đất Mỹ mang tên Phật Giáo Việt Nam, đến năm 1973 thì sáng lập trường Đại học Đông Phương. Năm 1980, Sư vẫn thản nhiên tiếp tục hoằng pháp khi đã biết mình mắc trọng bệnh nan y, và thâu thần tịch diệt về cõi Phật trong năm này, trụ thế 75 năm, với 52 tuổi đạo. Các tác phẩm Sư để lại: Phật Pháp, Trao đổi văn hoá Việt-Nhật, Buddhism and Zen in Vietnam.
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu-thich_thien_an
    • Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937): thế danh Hà Văn Xin, pháp tự Thiện Xuân, pháp danh Nhựt Sanh, thuộc thiền phái Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41, quê ở huyện Châu Phú- Châu Đốc, tỉnh An Giang. Năm lên 6 tuổi, sau nhiều lần cùng mẹ đến chùa Long Khánh (huyện Châu Phú) làm lễ cầu siêu cho cha, Sư xin xuất gia quy y với Hoà thượng Huệ Pháp, được thầy ban cho pháp danh là Nhựt Sanh. Được 10 tuổi thì Bổn sư viên tịch, Sư phải lên vùng Thất Sơn tìm thầy cầu đạo, được tu học 4 năm với Sư Chú ở chùa Định Long-núi Sam. Hạ sơn, Sư lên núi Cấm tu học với pháp huynh, rồi lại xuống núi cầu pháp với Hoà thượng Thiện Ngôn tại chùa Phước Hậu (Long Xuyên), nhận pháp tự là Thiện Xuân, và được theo học trường Phật học gia giáo ở chùa Bình An. Năm 1952, Sư được thọ giới Sa di, tiếp tục tu học Phật pháp tại chùa Ấn Quang (Chợ Lớn), cầu pháp với Hoà thượng Thiện Hoà, được ban pháp hiệu là Minh Thành. Năm 1962, sau khi thọ Cụ túc giới, Sư được phân công đi giảng pháp tại các lớp Sơ đẳng Phật học ở Sài Gòn- Chợ Lớn, và vài tỉnh miền Tây Nam Bộ. Năm 1963. Sư tham gia tích cực  phong trào đấu tranh chống chế độ gia đình trị họ Ngo, đòi tự do tôn giáo. Nhứng năm sau đó, Sư  tham gia hoằng pháp không ngơi nghỉ, góp công đức xây dựng Niệm Phật Đường Minh Đạo (phường Yên Đỗ), Niệm Phật Đường Pháp Vân (Q.3), thành lập trường Tiểu học Bồ Đề Pháp Vân, làm Giám đốc trường Trung-Tiểu học Bồ Đề Chợ Lớn (chùa Giác Ngộ). Từ năm 1971 đến 1977, Sư tiếp tục tu học đến mãn chương trình Cử nhân và Cao học Phật học tại Viện cao đẳng Huệ Nghiêm. Từ năm 1976 đến năm 1979, Sư được cử làm Phó Tổng thư ký Tổ đình Ấn Quang, Giám đốc Phật học viện cùng các cơ sở trực thuộc, và rất nhiều chức vụ quan trọng khác tại Tổ đình, cũng như ở Đại Tòng Lâm (Bà Rịa- Vùng Tàu), và Giáo Hội Trung Ương PGVN… Sư còn trước tác nhiều giáo trình cho các trường Phật học, sách đã xuất bản như: Phật học đức dục, Luật học cơ bản, Tỳ ni- Sa di Yếu giải, Oai nghi-Cảnh sách yếu giải, Bồt Tát giới Yếu giải, Bồ Tát Ưu Tắc giới kinh… Vào ngày 15 tháng 1 năm 2000, Sư thâu thần thị tịch tại Tổ đình Ấn Quang, trụ thế 63 năm, 38 tuổi đạo.
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu-HT THÍCH MINH THÀNH

 

                              TÂM KHÔNG - VĨNH HỮU

                               (tóm lược từ nhiều nguồn sử liệu)

 

 

 

 

 

 

Liên hệ:

VĨNH HỮU

Tổ 1 - Thôn Vĩnh Điềm Trung – Xã Vĩnh Hiệp

TP. Nha Trang – Khánh Hòa ĐT: 0902010763

 

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/07/2014(Xem: 8912)
Thông thường làm từ thiện, ai cũng liên kết với lòng Từ bi. Thấy ai làm từ thiện đều nghĩ người đó có tâm từ. Thật ra, cùng một động thái nhưng nội hàm có nhiều sai biệt. Có người vì xu hướng mà làm từ thiện, có người vì ham danh mà làm từ thiện, có người chạy theo phong trào mà làm từ thiện...những trường hợp nầy thiết nghĩ không cần phải đề cập, cái cần đề cập là những người thực tâm vì thương xót đối tượng mà làm từ thiện. Trường hợp nầy hoàn toàn đồng ý đây là tâm tốt, nhưng tốt đối với người bình thường trong xã hội, riêng với một Phật tử dù xuất gia hay tại gia, việc hành thiện còn phải xây dựng trên nền tảng tâm Bồ đề.
29/07/2014(Xem: 8882)
Tất cả chúng ta đều có thể bị bệnh. Một khi chúng ta được sinh ra trong vòng luân hồi sinh tử với thân thể này thì có nghĩa là chúng ta đã chịu sự ảnh hưởng của những phiền não và nghiệp chướng, cho nên bị ốm đau là điều không thể nào tránh khỏi. Đó cũng chính là bản chất của cơ thể chúng ta - thân thể này sẽ già đi và sẽ bị bệnh. Ma-ha Tăng kỳ luật, quyển 28, Đại chính tân tu Đại tạng kinh, tập 22, trang 455b)
24/07/2014(Xem: 10735)
Hôm nay chúng tôi xin nói đề tài Ba điều căn bản của người tu Phật. Vì chúng ta tu Phật phải biết thế nào là cội gốc, thế nào là ngọn ngành. Ba điều này tôi căn cứ theo kinh Pháp Hoa, nhắc lại cho quí vị nhớ và thực hành.
22/07/2014(Xem: 9869)
Hoà thượng Chánh Tâm trụ trì ở chùa Kim Liên. Một ngôi chùa cổ, xinh xắn, ấm cúng, nhiều cây cổ thụ bao quanh. Chùa toạ lạc dưới chân núi, cạnh một con suối nhỏ chảy róc rách. Ngài có hai đệ tử, thầy tỳ kheo Tâm An và chú sa di Tâm Bình. Thầy Tâm An xuất gia từ thuở ấu thơ, vì mồ côi mẹ sớm. Thầy lớn hơn chú Tâm Bình đến hai mươi tuổi. Thầy đảm trách hai chức vị, Thị giả và Tri khách, nghĩa là vừa chăm sóc Hoà thượng, vừa lo việc trong, việc ngoài ở chùa. Thầy bận rộn suốt ngày, nhưng lúc nào cũng tươi cười vui vẻ. Chưa bao giờ ai thấy Thầy sân si. Thầy luôn luôn giữ phép lục hoà, trên kính, dưới nhường, làm mọi việc trong chánh niệm tỉnh giác, cần mẫn tinh tiến trong việc tu học. Sau công phu tối, Thầy thường toạ thiền dưới gốc cây cổ thụ bên bờ hồ sau chùa. Từ khi còn thơ ấu, Thầy đã được sự dìu dắt dạy bảo ân cần của Thầy Bổn Sư.
21/07/2014(Xem: 10697)
Những món thực phẩm dưới đây rất quen thuộc và bổ dưỡng. Nhưng nếu ăn không đúng cách thì hậu quả mà chúng đem lại cũng khôn lường.
19/07/2014(Xem: 13405)
Ba nạn nhân vụ máy bay MH17 bị bắn gồm chị Nguyễn Ngọc Minh, 37 tuổi; con gái Đặng Minh Châu, 17 tuổi; và con trai Đặng Quốc Duy, 13 tuổi. Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao Việt Nam xác nhận có ba công dân Việt Nam mang quốc tịch Hà Lan trên máy bay thiệt mạng. Sáng nay cán bộ Cục Lãnh sự đến thăm và chia buồn cùng gia đình chị Minh. Nguyện vọng của bố mẹ chị Minh là đưa thi thể ba mẹ con về Việt Nam vì chị Minh và hai cháu sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Gia đình cũng cung cấp mẫu ADN để gửi sang Ukraine giúp hỗ trợ công tác nhận dạng các nạn nhân. Người bạn thân của chị Ngọc Minh kể với VnExpress, rằng gia đình chị Minh vừa đến dự đám cưới bạn ở Anh hôm 13/7. Theo kế hoạch, ba mẹ con sẽ quá cảnh tại Kuala Lumpur, Malaysia, trước khi về Hà Nội. Chị Nguyễn Ngọc Minh và hai con sống ở Delft, một thị trấn nhỏ cách thủ đô Amsterdam (Hà Lan) 60 km. Tháng 8/2013, chồng chị là Đặng Quốc Thắng qua đời trong một tai nạn tàu.
19/07/2014(Xem: 9834)
Niềm an lạc của mùa An cư tại Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, vẫn theo mãi mỗi hành giả sau khi mãn hạ, trên đường đi về, ngay cả hôm nay tại từng trú xứ và đã lan tỏa về đến Việt Nam, qua 5 Trường Hạ ( gần 500 vị) đang còn cấm túc, mà người viết đã chia sẻ cúng dường với số tiền nhận được tại Trường Hạ Quảng Đức. Người viết, đoan chắc niềm an lạc ấy sẽ còn lan tỏa và lợi ích nhiều hơn như vậy. Vì nếu là người con Phật chân chính sẽ TÙY HỶ trước tấm lòng rộng mở, với sự thỉnh mời thân thiết. Khi đến đạo tràng Quảng Đức, nhận được sự niềm nở, hân hoan với tình pháp lữ mặn nồng của nhị vị Thượng Tọa Viện Chủ và Trụ Trì Tu Viện.
18/07/2014(Xem: 15397)
Có một Phật tử gửi thư cho tôi và đặt câu hỏi về vấn đề quy y. Tôi xin ghi lại và trả lời, mong rằng có thể giải tỏa khúc mắc cho những người cùng cảnh ngộ. Nguyên văn lá thư: Kính bạch thầy, Đây là câu chuyên có thật 100% nơi con ở, nhưng con xin phép dấu tên những nhân vật trong câu chuyện.
18/07/2014(Xem: 7443)
Không phải vì hiện tượng “Một vì sao đã tắt trên trời Âu“ mà Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ 26 phải… đóng cửa! Không, các Phật tử Âu Châu chúng tôi nhất quyết không phụ lòng mong đợi của Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Minh Tâm tức Sư Ông Khánh Anh thân thương của chúng tôi, đã cùng nhau kéo đến xứ thần tiên Thụy Sĩ có núi cao, hồ đẹp tại Fribourg để tu học từ ngày 30 tháng 6 đến 10 tháng 7 năm 2014.
16/07/2014(Xem: 9513)
Chương trình PPUD lần này với chủ đề "Hạnh phúc thật giản đơn" có mô típ hoàn toàn khác so với 18 chương trình trước, là chương trình dã ngoại ngắn ngày đầu tiên được tổ chức trong 2 ngày 9 và 10/08/2014 tại chùa Tâm Thành, xã Quới Thành, Châu Thành, Bến Tre.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]