Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cư sĩ Samuel Beal, người Anh, vị Học giả Nổi tiếng Phương Đông học

13/12/202013:23(Xem: 6431)
Cư sĩ Samuel Beal, người Anh, vị Học giả Nổi tiếng Phương Đông học

Cư sĩ Samuel Beal, người Anh, vị Học giả Nổi tiếng Phương Đông học

(1825- 1889)

 Cư sĩ Samuel Beal 1

Một học giả nổi tiếng người Anh, làm việc cho trường đại học ở Luân Đôn, nổi tiếng vì ông đã dịch một số sách vở Phật giáo từ tiếng Hoa. Trong số những ấn bản đã in của ông có tác phẩm “Cuộc Đời của Thánh Tăng Huyền Trang, The Life of Hsuan-Tsang”.

 

Cư sĩ Samuel Beal sinh vào ngày 27 tháng 11 năm 1825, nguyên quán tại Greens Norton, một ngôi làng ở Nam Northamptonshire, Vương quốc Anh, vị học giả nổi tiếng Phương Đông học, vị Phật tử người Anh đầu tiên trực tiếp dịch những tác phẩm văn học Phật giáo từ tiếng Hoa sang Anh ngữ, ban đầy những ghi chép kinh điển Phật giáo, do đó góp phần làm sáng tỏ lịch sử Ấn Độ.

 

Cuộc sống

 

Cư sĩ Samuel Beal sinh trưởng ở Devonport, một quận Devon của Vương quốc Anh và học tại các Trường Kingswood, ngôi trường nội trú ở Bath, Somerset, Anh, và Trường tiểu học Devonport, một trong những trường lâu đời nhất trong cả nước Anh. Năm 1847, Ông tốt nghiệp trường Trinity College, Đại học Cambridge. Ông là một người con trai yêu quý của cụ ông William Beal; và anh trai của William Beal và Philip Beal, những người sống soát sau một vụ đắm tàu ở Kenn Reef.

 

Từ những thập niên 1848-1850, ông được bổ nhiệm trên cương vị Hiệu trưởng trường Bramham College, Yorkshire, một hạt lịch sử của miền bắc nước Anh và lớn nhất tại Vương quốc Anh.

 Cư sĩ Samuel Beal 2

Năm 1850, ông được phong chức Phó tế, và năm sau ông được thụ phong chức Linh mục, một chức phẩm của Giáo hội Công giáo Rôma, là giáo sĩ có quyền thực hiện các lễ nghi tôn giáo trực tiếp cho giáo dân. Sau khi làm Giám tuyển tại Brooke, Norfolk và Sopley ở Hampshire, ông nộp đơn xin vào Văn phòng Tuyên úy Hải quốc, và năm 1847, ông được bổ nhiệm vào H.M.S. Sybille (Bảy tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên HMS Sibyl hay HMS Sybille, được đặt theo tên các nhân vật thần thoại Hy Lạp).

 

Trong Chiến tranh nha phiến lần thứ hai, ông đã tham gia Chiến tranh Anh-Trung, Chiến tranh Trung Hoa lần thứ hai, Chiến tranh mũi tên, hoặc Viễn chinh Trung Quốc của Anh-Pháp, là một cuộc chiến tranh giữa Đế quốc Anh và Đệ Nhị Đế chế Pháp với Nhà Thanh (nay là Trung Quốc) kéo dài từ năm 1856 đến 1860.

 

Những thập niên 1873-1877, Cư sĩ Samuel Beal công tác tại Lực lượng Pháo binhThủy Quân Lục Chiến Hoàng gia Anh, sau đó là các bến tàu Pembroke và Devonport.

 

Năm 1857, ông đã xuất bản tư nhân và cho lưu hành  một tập sách mỏng, cho thấy rằng ông trùm Yedo (tức Tokugawa shōgun của Edo), vị lãnh chúa mà người nước ngoài đã lập Hiệp ước, không phải là Thiên hoàng thực sự của Nhật Bản.

 

Năm 1861, ông đã kết hôn với nàng Martha Ann Paris, 1836–1881.

 

Năm 1877, Cư sĩ Samuel Beal đã nghỉ hưu từ đơn vị Hải quân, khi được bổ nhiệm chức danh Giáo sư chuyên khoa Hoa ngữ tại Đại học College, London, Vương quốc Anh. Từ những thập niên 1877–1880, ông được tín nhiệm trong giáo dục và được bầu làm Hiệu trưởng trường Falstone, Northumberland; Hiệu trưởng trường Wark, Northumberland 1880–1888; và của Greens Norton, Northamptonshire, 1888–1889.

 

Năm 1885, Cư sĩ Samuel Beal đã được trao giải DCL (Durham) “để ghi nhận giá trị của các nghiên cứu của ông về Phật giáo Trung Hoa”.

 

Danh tiếng của ông được tạo dựng, nhờ hàng loạt tác phẩm của ông, ghi lại các chuyến hành hương chiêm bái Phật tích Ấn Độ, bởi các vị Thánh tăng Phật giáo Trung Hoa  từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 7 sau kỷ nguyên Tây lịch, và bởi những tác phẩm của ông về Phật giáo.

 

Trần gian Ta bà cõi tạm, trải bao thăng trầm, chinh chiến bởi cuộc sống trong binh nghiệp, những giá trị cuộc sống thường nhật, trọn đời quên mình vì người, thuận thế vô thường, ông thản nhiên trút hơi thở, xã báo thân vào ngày 20 tháng 8 năm 1889, hưởng thọ 65 tuổi.

 Cư sĩ Samuel Beal 3

Những tác phẩm:

 

- Travels of Fah-Hian and Sung-Yun, Buddhist pilgrims, from China to India (400 A.D. and 518 A.D.). (1869)

 

- The Catena of Buddhist Scriptures from the Chinese (1872)

 

- The Romantic Legend of Buddha (1876)

 

- Texts from the Buddhist Canon, Dhammapada (1878)

 

- Buddhism in China (1884)

 

- Si-Yu-Ki: Buddhist Records of the Western World, by Hiuen Tsiang. 2 vols. Translated by Samuel Beal. London. 1884. Reprint: Delhi. Oriental Books Reprint Corporation. 1969. (Includes The Travels of Sung-Yun and Fa-Hien).

 

- The Life of Hiuen-Tsiang. Translated from the Chinese of Shaman Hwui Li by Samuel Beal. London. 1911. Reprint Munshiram Manoharlal, New Delhi. 1973.

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: 維基百科)

 

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/03/2017(Xem: 8647)
Mỗi sáng Chủ Nhật , quý Sư ở tu viện Santi Forest Monastery thường chuẩn bị rời chùa, đi xuống phố hoặc vào làng khất thực. Gọi là “đi khất thực”, nhưng thực sự nên gọi là “đi gieo duyên” với quần chúng địa phương thì đúng hơn, cư dân nơi đây, họ là những người Úc thuần túy, Phật giáo đối với họ là một tôn giáo hoàn toàn xa lạ, có thể họ chỉ nghe qua cái tên “ Buddhism “ mà không hề biết đó là gì ?
25/03/2017(Xem: 11371)
Hôm nay là ngày 22/2/2017, chúng tôi, phái đoàn Phật giáo Việt Nam, đã được anh Norway mời đến văn phòng để cầu nguyện bình an cho công ty. Nhân đây, chúng tôi xin chia sẻ đến toàn thể quý vị những bước chân thiền hành đem đến sự an lạc cho quý vị ngay trong giây phút này.
25/03/2017(Xem: 8942)
Trước tiên, sứ mệnh và mục đích của giáo dục luôn thay đổi theo không gian, thời gian, quốc độ và niềm tin của mỗi người. Nhưng quan trọng hơn, “Học để làm gì?” Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp (United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization - UNESCO), có Bốn trụ cột trong việc học (The Four Pillars of Learning)[1]. Học để biết; Học để làm; Học để tự khẳng định chính mình/học để làm người; và Học để cùng chung sống.
25/03/2017(Xem: 8235)
24 giáo viên ngồi thành một vòng tròn, lưng thẳng và mắt nhắm khi một bản nhạc nhẹ vang lên. Một giọng nói giúp họ thanh lọc tâm hồn, "Hãy hít vào thật sâu, thật chậm và thở ra thật chậm".
25/03/2017(Xem: 8207)
“Vui như ngày hội!” Đó là lời tâm sự của một vị trong Ban tổ chức và một khán thính giả đến sớm như tôi, mà tình cờ nghe được. Giữa sự náo nhiệt, thân thiện và nhiều năng lượng trong văn phòng Việt Báo, chúng tôi đang ngồi tạm trên chiếc ghế của nhà báo lão thành Nguyễn Thanh Huy để đợi người anh Ngô Đức Chiến và anh Phan Tấn Hải; nhân tiện tôi nảy ý định viết về buổi sinh hoạt văn học nghệ thuật này như là một món ăn tinh thần gởi gắm cho nhau.
23/03/2017(Xem: 6495)
Lời dẫn, Đạo Ca không phải là Chứng Đạo Ca, được wikipedia định nghĩa như sau: Chứng Đạo Ca, (zh. 證道歌, ja. shōdōka) nghĩa là "bài ca về sự trực nhận chân lý". Mang hai nghĩa sau: 1. Chỉ những bài ca tán tụng Chân như của các Thánh nhân khi thành đạo, đặc biệt là những vị Đại thành tựu 2. Một kiệt tác của Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác, cũng được gọi là Tối thượng thừa Phật tính ca (最上乘佛性歌, ja. saijōjō busshō-ka).
23/03/2017(Xem: 6224)
Hỏi: Tại sao con người phải chịu nhiều đau khổ hơn là hạnh phúc? Đáp: Khổ đau là một sự thật của kiếp người vì ai cũng phải sinh già, bệnh, chết rồi thương yêu xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không được như ý khổ, thân này thịnh suy khổ. Hạnh phúc là sự biết cảm nhận giá trị sống trong mỗi hoàn cảnh ngay tại đây và bây giờ, chứ hạnh phúc không phải là điểm đến mà ta đang mong đợi.
21/03/2017(Xem: 10892)
Mùa xuân, vạn vật sinh trưởng. Ngắm một cây thân mộc hay thân thảo, ta thấy chúng đều đang chuẩn bị sinh lực để phát triển cành nhánh, nảy lộc, đơm hoa rồi kết trái. Con người cũng vậy, bé thơ, thiếu niên rồi thanh niên... Cái cây thì nó phát triển toàn bộ. Con người cũng phát triển toàn bộ cả phần vật chất và phần tinh thần. Thân vật chất thì tương tợ nhau nhưng phần tinh thần thì nó phát triển rất phức tạp. Nhưng nói chung, chúng chạy theo hai khuynh hướng, hướng xấu ác và hướng tốt lành.
20/03/2017(Xem: 8353)
Nhân duyên trong chuyến hành hương Tích Lan tháng 7 năm 2011, một Phật tử trong đoàn đến từ Âu châu, Trần Thị Nhật Hưng, đặc trách tường thuật chuyến đi; Đại Đức Thích Như Tú, một học tăng đến từ Đại Học Delhi - Ấn độ, cùng kết làm thiện hữu tri thức. Vì thế, sau chuyến đi đã có nhã ý viết chung một truyện ngắn với tựa đề “Vườn Đại Uyển”. Ban Biên Tập báo Viên Giác xin trân trọng giới thiệu đến độc giả.
20/03/2017(Xem: 7846)
Kính thưa chư Tôn Đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Trước khi từ biệt Bồ Đề Đạo Tràng, được sự phát tâm lành từ quí vị, chúng tôi đã đến thăm và thực hiện một buổi tặng quà cho các em nhỏ thuộc một trường làng cách Bồ Đề Đạo Tràng chừng 12 cây số. Trường chỉ có 1 lớp học với tất cả là 162 em nhỏ thuộc giai cấp thấp của xã hội India. Xin gửi một vài hình ảnh tường trình thay cho lời tri ân cùng quí vị ân nhân đã bảo trợ cho buổi phát quà :
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]