Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais, nhà Sưu tập Nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng

10/12/202016:35(Xem: 5431)
Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais, nhà Sưu tập Nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng

Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais, nhà Sưu tập Nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng

(1887-1948)

 Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais 1

Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais sinh năm 1887 tại Cincinnati, thành phố ở miền tây nam Ohio, Hoa Kỳ. Thân phụ của bà là cụ ông John Coblentz và mẫu thân là cụ bà Margaret Norman Coblentz. Vốn mồ côi cha từ thuở ấu thơ, mẹ phải vất vả đùm bộc trong cảnh gà mái nuôi con; Jacques Marchais đã đến các trại mồ côi và các mái ấm khác nhau trong suốt thời thơ ấu, và tuổi thanh xuân 16, bà đã trở thành diễn viên tham gia vào một bộ phim Boston Peggy From Paris, nơi bà gặp người chồng đầu tiên Brookings Montgomery. Bà sinh được ba người con, hai gái Edna May và Jayne, và con trai, Brookings.

 

Bà bắt đầu sự nghiệp tại Chicago, trong một diễn viên nhí khi năm lên 3 tuổi, với tên gọi diễn viên  Edna Coblentz hoặc Edna Norman (họ của mẹ), cả hai tên gọi mà hiền mẫu của bà cho là phù hợp hơn với sự nghiệp diễn viên trên sân khấu. Hiền mẫu của bà đã đưa bé gái yêu quý lên sân khấu vì vấn đề tài chính. Diễn viên nhí, Jacques Marchais đã trình diễn trong những vỡ kịch khá đáng chú ý vào thời điểm bấy giờ (như các vỡ diễn “Lời nói dối trắng trợn” “Trận đấu hiện đại” tại Nhà hát Shiller). Diễn viên nhí, Jacques Marchais cũng đã từng được mời đến tư gia của những gia đình giàu có ở Chicago để biểu diễn độc tấu (trong đó có tên trùm tội phạm Mike McDonald), những gia đình khá giả này đã trả tiền học phí cho Diễn viên nhí, Jacques Marchais.

 

Tuổi thiếu nữ xuân sắc nước hương trời (16), nữ nghệ sĩ Jacques Marchais đến Boston, trong một vỡ kịch của George Ade (1866-1944), một nhà viết kịch nổi tiếng nhất ở Mỹ vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20.

 

Năm 1916, bà chuyển đến thành phố New York để hỗ trợ mình như một diễn viên, và tiếp tục sử dụng tên diễn viên Jacques Marchais.

 Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais 2

Trong bối cảnh chiến tranh và khủng hoảng của nền văn minh phương Tây, nhiều trí thức Mỹ đã quan tâm đến văn hóa và Thông thiên học phương Đông. Khi nữ nghệ sĩ Jacques Marchais chuyển đến New York vào năm 1916 để theo đuổi sự nghiệp diễn viên nghệ thuật sân khấu, bà đã tham gia vào một nhóm xã hội gồm các nghệ sĩ, du khách, học giả, nhà khoa học và quý tộc, những người đều tò mò về tâm linh châu Á và Phật giáo. Do đó, nữ nghệ sĩ Jacques Marchais có thể nói là một trong những người tham gia tích cực đầu tiên trong lịch sử sơ khai của Phật giáo Hoa Kỳ.

 

Thời gian sống tại thành phố New York, Hoa Kỳ,  bà thường giao lưu với nhiều bạn bè, chia sẻ mối quan tâm chung trong nghệ thuật, tâm linh Phật giáo.

 

Năm 1920, bà thêm một lần kết hôn với chàng Harry Klauber (1885-1948), một doanh nhân người Brooklyn trong ngành hóa chất. Doanh nhân Harry Klauber và nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais chuyển đến đảo Staten vào năm 1921, định cư ở Lighthouse Hill, theo nhật ký của bà, họ có thể có “một nông trại trong khoảng cách đi lại Manhattan, một quận của thành phố New York” và bà bắt đầu sưu tầm nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng.

 

Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais, một trong những nhà sưu tập đầu tiên về Nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng tại Hoa Kỳ. Bà đã viết trên tạp chí rằng, lần đầu tiên của mình khi được tiếp xúc với bất cứ điều gì là Phật giáo Tây Tạng, một bộ sưu tập các pho tượng nhỏ bằng đồng, miêu tả vị thần hộ pháp, đã được lưu truyền từ đời ông cố của bà, John Joseph Norman, một thương gia từ Philadelphia người đã tích cực trong việc buôn bán trà. Là một cô gái trẻ, bà đã chơi với các bức tượng nhỏ như thể chúng là đồ chơi.

 Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais 3

Sau khi mẫu thân của bà đã qua đời vào năm 1927, bà đã khám phá ra những pho tượng nhỏ trong số đồ đạc của mẫu thân, và đã thúc đẩy và khám phá sâu hơn về ý nghĩa của những pho tượng này. Và đã dẫn bà đến việc “Nghiên cứu sâu và nghiên cứu liên tục”, trong “Nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng- Đất nước – Con người và Tôn giáo của họ”.

 

Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais đã phát triển mối quan hệ này với văn hóa Phật giáo Tây Tạng vào cuối những năm 1920, và nghiên cứu kỹ lưỡng tất cả những gì bà có thể làm được. Bà tin rằng “Ít nhiều hoạt động như nam châm trong việc vẽ các vị thần Hộ pháp, chư vị Bồ tát và Phật Đông Ấn Độ và Tây Tạng cũng như các pháp khí theo nghi thức Phật giáo”. Sau khi xem một cuộc triển lãm dành cho Cung điện Potala (tọa lạc tại Lhasa, khu tự trị Tây Tạng, đã từng là nơi ngự của các đời Đạt Lai Lạt Ma), tại Triển lãm Quốc tế Thế kỷ 1933 tại Chicago, Hoa Kỳ, bà đã trở thành nhân vật đặc biệt là cảm hứng để tăng cường bộ sưu tập các hiện vật văn hóa nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng của bà và chia sẻ kiến thức của bà với thế giới.

 

Năm 1938, bà mở Phòng Trưng bày Jacques Marchais, để trưng bày nghệ thuật Phật giáo từ những nền văn hóa tương đối chưa được biết đến ở Đông Ấn Độ và Tây Tạng. Bộ sưu tập này trải dài từ các tác phẩm nghệ thuật tranh Thangkas trên tường hoành tráng, đến đồ trang trí nội thất chạm trổ bằng gỗ và ánh sáng đồ đạc. Tượng và tác phẩm điêu khắc xếp hàng trên kệ, như bà đã tự hào giới thiệu mua lại của mình cho các nhóm cá nhân. Nhiều trong số hiện vật này chỉ có sẵn cho những người thu mua như bà từ những năm 1911 đến 1950, do hoạt động chính trị được tăng cường trong khu vực. Bà muốn gây ảnh hưởng đến nhân loại trên quy mô lớn hơn và sử dụng Thư viện làm “bước đệm” để xây dựng Bảo tàng Nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng.

 

Mặc dù bà không bao giờ đi du lịch đến Tây Tạng, bà đã mua các vật dụng thông thường qua đấu giá, và bán bất động sản. Bà thường giữ những tác phẩm tốt nhất cho bản thân, và bán các đồ vật khác trong phòng trưng bày như một phương tiện khác để liên tục xây dựng bộ sưu tập của mình. Bà đã cam kết chia sẻ kiến thức của mình về Phật giáo Tây Tạng với thế giới.

 

Trong suốt cuộc đời của Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais, đã sưu tập hơn một nghìn cổ vật. Bộ sưu tập này bao gồm các tác phẩm điêu khắc, pháp khí nghi lễ, nhạc cụ Phật giáo, thangka hoặc tranh cuộn và đồ trang trí nộ thất. Các vật thể chủ yếu từ Tây Tạng, Nepal, Bắc Trung Quốc và Mông Cổ, và một vài vật phẩm đến từ Đông Nam Á.

 Bảo tàng Nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng Jacques Marchais 1

Trong một bức thư gửi Thượng nghị sĩ Edward E. Denison của Mairon vào ngày 02/06/1939, Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais đã viết: “Là một học sinh có triết học phương Đông, và đã quen với các tôn giáo phương Đông. Tôi sớm nhận ra  rằng, tôi đã hành động ít nhiều như một nam châm trong việc vẽ các vị Thần Hộ pháp, chư Phật, Bồ tát Đông Ấn Độ và Tây Tạng và các đối tượng với tôi trong nghi thức”.

 

Bảo tàng Nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng Jacques Marchais được bao quanh với các khu vườn bậc thang, với một ao Liên trì (hoa sen), cá cảnh bơi lội tung tăng, đêm trăng gió mát từng bước chân thanh thản nhẹ bước an lạc kinh hành sau khi tọa thiền. Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais đặt tên phong cảnh của mình là khu vườn Thiền định (samātha bhāvanā). Các tòa nhà được thiết kế cảnh quan đã tạo ra một môi trường mang tính nghệ thuật Phật giáo. Khi Bảo tàng Nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng Jacques Marchais chính thức khai trương vào ngày 05/10/1947, sự kiện này đã được đăng trong tạp chí LIFE.

 

Cả đời gắn bó với nghệ thuật điển ảnh thuận theo thế gian, với đạo pháp bà đã say mê trong nghệ thuật Phật giáo, tứ đại đến hồi suy yếu, thuận thế vô thường, bà đã thanh thản trút hơi thở về với cõi Phật vào tháng 02 năm 1948, chỉ bốn tháng sau khi khai trương bảo tàng. Công đức viên mãn của bà với một bộ sưu tập hoành tráng, nhấn mạnh đến giá trị văn hóa nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng.

 

Khi chính trị toàn cầu đưa Tây Tạng xa xỉ vào thế giới vào đầu thế kỷ 20, điều này đã thúc đẩy sự quan tâm của phương Tây vào văn hóa Tây Tạng. Ý tưởng lãng mạn của Tây Tạng – một nơi nào đó có một nền văn hóa dựa trên tinh thần giác ngộ chứ không phải là sản xuất công nghiệp hoặc mở rộng thuộc địa – đã thu hút được nhiều người không biết đến ở phương Tây, đặc biệt là những sự tàn phá vào Thế chiến thứ nhất và Thế chiến thứ II.

 

Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais đã tiên phong trong thời gian của mình để nhận ra giá trị của văn hóa Tây Tạng đối với kho tàng kiến thức của con người, và bà đã thực hiện tuyệt vời về khát vọng của mình rằng: “Nếu tôi có thể cho thế giới cái gì đó nâng cao và sự giúp đỡ chân thành, Tôi luôn sẵn sàng”.

 

Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais đã đóng góp đáng kể cho sự quan tâm ngày càng tăng đối với nghệ thuật Hy Mã Lạp Sơn và triết học Phật giáo ở Hoa Kỳ trong đầu thế kỷ 20, với mục tiêu chung là mở rộng đối thoại giữa các nền văn hóa, như một phương tiện để phát triển từ bi tâm và hòa bình thế giới.

 

Sự nỗ lực của Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais, từ những thập niên 1921 đến 1948, tham gia hoạt động văn hóa nghệ thuật Phật giáo, tạo thành một bộ sưu tập nghệ thuật Himalayan, và xây dựng một phiên bản thu hẹp của Cung điện Potala của thủ đô Lhasa, là một phản ánh sâu sắc của giai đoạn quốc tế của Phật giáo phương Tây, được đặc trưng bởi những thay đổi và những diễn giải mới, mang lại trong việc thích ứng các giáo lý và thực hành Phật giáo với hiện đại.

 

Có người thắc mắc rằng mối quan hệ của bà với Phật  giáo như thế nào?.

 

Nữ nghệ sĩ Jacques Marchais có phải là một Phật tử không?

 

Vào thời đại của bà, Phật giáo không được coi trọng, và rất ít thông tin về Phật giáo tại Hoa Kỳ. Thông qua cuốn tiểu thuyết “Lost Horizon; Đường Chân trời đã mất” (1933) của nhà văn người Anh Jammes Hilton, mô tả một nơi có sự hòa hợp tuyệt vời, với những bức tranh tuyệt đẹp về vùng đất cao nguyên, Phật giáo Kim Cương thừa, Tây Tạng huyền thoại.

 

Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais đồng nhất mạnh mẽ với văn hóa Tây Tạng và Phật giáo, nhưng lại không bao giờ công khai mình là một Phật tử. Đúng hơn, bà tỏ ra cởi mở với mọi tôn giáo. Mặc dù muốn Bảo tàng Nghệ thuật Tây Tạng của bà giống như một cơ sở tự viện Phật giáo, nhưng bà không quan niệm đây là nơi để mọi người cải đạo và truyền đạo, đây là nơi để giáo dục họ về văn hóa tâm linh Hy Mã Lạp Sơn. Mục tiêu của bà là cống hiến nhiều hơn vào sự hiểu biết lẫn nhau về văn hóa giữa phương Tây và phương Đông, cũng như sự khoan dung tôn giáo. Tuy nhiên, bà đã bày tỏ niềm tin của bà vào Chánh tín, Chánh kiến Phật giáo.

 

Là một nữ nghệ sĩ Phật tử sinh vào cuối thế kỷ 19, bà đã xoay sở với cuộc sống của riêng mình, và tự hiện thực hóa một ước mơ vào thời bấy giờ, có thể nói là rất hy hữu. Sự tò mò và trí tưởng tượng của bà, cũng như sự nỗ lực học tập nghiêm túc của bà, khiến bà trở thành một trong những người đầu tiên công khai hóa Tây Tạng và Phật giáo ở thế giới phương Tây. Với sự lan tỏa đạo nhiệm mầu và hạnh đức Như Lai, thông qua ánh quang minh từ bi, trí tuệ, hùng lực, tự do bình đẳng đạo Phật tại Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ ngày nay, và về những lý tưởng nhân văn về giao thoa giữa các nền văn hóa sau Đệ nhị Thế chiến, Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais có thể nói là một người có tầm nhìn xa.

Lip video:

 

NYC Traveler - Jacques Marchais Museum of Tibetan Art

https://www.youtube.com/watch?v=ZJwtbPVXfug

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Staten Island NYC Living)

 

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/06/2021(Xem: 5094)
Phần này bàn về các tên gọi thợ dào, thợ rèn, thợ máy cùng tương quan Hán Việt đ - d như đao -dao, đáo –dáo vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ), thí dụ như dộng trong câu làm khải dộng chúa hay cây da so với cây đa chẳng hạn. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
16/06/2021(Xem: 5245)
Chỉ mới 11 tuổi, Trần Anh Nam đã sếp sòng đám con nít cùng trang lứa dọc suốt đại lộ Phan Bội Châu quẹo qua Quang Trung Ngã Tư Chính, bày ra nhiều trò chơi, nghịch phá làm người lớn vừa ngưỡng mộ vừa điên đầu nhưng lại thu hút đám bạn của nó. Trần Anh Nam mới nghe tên, ai cũng nghĩ là con trai. Không, cô bé chính hiệu thị mẹt, là con út của một gia đình năm người con gái. Bởi mơ được sinh con trai để có người nối dõi tông đường, nên chưa sinh ra, cha mẹ cô bé đã lo đặt sẵn cái tên con trai, sắm sửa quần áo cũng con trai với hy vọng đứa thứ năm này phải là con trai. Cũng cần nói thêm, thời cô bé được sinh ra, y học chưa văn minh để có thể siêu âm biết trước trai hay gái.
16/06/2021(Xem: 6359)
TÂM THƯ CẢM TẠ CỨU TRỢ ẤN ĐỘ Kính bạch quý Ngài Kính thưa quý vị, Từ đầu tháng tư năm 2021 đến nay, Covid-19 biến thể đã bùng nổ tại nước Ấn Độ, và khiến con số người bị nhiễm tăng vọt, cũng như số người tử vong. Theo tình hình mới nhất gần đây, Ấn Độ ghi nhận đã có hơn 19 triệu ca nhiễm virus corona, và đã có hơn 215.000 ca tử vong, tuy trên thực tế số lượng tử vong được cho là cao hơn nhiều. Số tử vong hàng ngày cao nhất trước đó ở nước này, cũng được nêu trong tuần rồi, là 3.645 trường hợp. Cạnh bên sự nhiễm bệnh và tử vong, Ấn Độ còn phải gánh nặng bởi sự thiếu thốn lương thực trầm trọng, nạn đói bao trùm khắp khắp nơi.
15/06/2021(Xem: 4756)
Theo phép niệm tâm hay quán tâm được ghi lại trong kinh điển, hành giả khách quan ghi nhận kịp thời những trạng thái tâm đang sanh khởi nổi bật ngay trong khoảnh khắc hiện tại. Tâm như thế nào, hành giả ghi nhận như thế ấy, không thêm không bớt. Trong cuộc sống hằng ngày, con người bị tâm tham, sân, si chi phối thường xuyên. Với người đời, ta có thể khuyên nhắc đừng tham, đừng sân như một bài học luân lý, đạo đức. Nhưng với người hành đạo, Đức Phật chỉ dẫn phương cách đối trị trực tiếp.
14/06/2021(Xem: 5434)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Để duy trì truyền thống An Cư Kiết Hạ hằng năm là truyền thống của Tăng đoàn tự ngàn xưa của đức Phật, mặc dù Ấn Độ đang trong tình trạng Dịch bịch nhưng chư Tăng các truyền thống vẫn câu hội về một trú xứ để tác pháp An Cư Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương ở xứ này, chúng con, chúng tôi đã thực hiện một buổi cúng dường đến Đại Tăng với ước mong các ngài yên tâm An Cư tu tập trong hoàn cảnh thiếu thốn chung của nạn Dịch.
12/06/2021(Xem: 4051)
Ngay trước khi khởi đầu của thời gian, nữ thần Ticca dong chơi trong vườn và tạo ra những hình tượng bằng đất bùn. Cùng lúc đó lại trùng hợp với chuyện là bà mẹ của Ticca đang bận âm mưu cùng với các chị em của bà để chống lại gia đình chồng bà nên bà không nhận thấy rằng đứa con gái nhỏ của bà đã trở thành một người đàn bà trẻ có thể tạo ra được sự sống. Do sự lơ đễnh của bà mẹ cô, Ticca không hay biết rằng cô đã có được những quyền năng mới và những trách nhiệm trao phó vào tay người đàn bà.
12/06/2021(Xem: 3804)
Nữ diễn viên nhìn vào trong hồ nước và trông thấy một khuôn mặt tuyệt vời, hàm răng hoàn hảo và một thân hình xứng hợp. Cô hỏi: “Chao ơi, sao tôi lại không thành một tài tử?” Con nhái nói: “Tôi có thể làm cho cô thành minh tinh.” Cô diễn viên la lên: “Mi là ai vậy?”
12/06/2021(Xem: 4697)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật - Kính thưa chư Tôn đức, chư Thiện hữu & quí vị hảo tâm. Vào ngày Thứ Ba (June 08) vừa qua, được sự cho phép của chính quyền địa phương làng Tikabigar và Kutitya Village Bihar India, nhóm Từ thiện Bodhgaya Heart chúng con, chúng tôi đã tiếp tục hành trình cứu trợ thực phẩm cho dân nghèo mùa Dịch covid. Xin mời chư vị xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Buổi phát quà cứu trợ cho 377 căn hộ tại 2 ngôi làng cách Bồ đề Đạo Tràng chừng 8 cây số. Thành phần quà tặng cho mỗi hộ gồm có: 10 ký Gạo và bột Chapati, 1 bộ áo Sari, 2 ký đường, dầu ăn, bánh ngọt cho trẻ em và 100Rupees tiên mặt (Mỗi phần quà trị giá: 15usd.75cents >< 377 hộ = . Bên cạnh đó là những phần phụ phí như mướn xe chở hàng, tiền công đóng gói và công thợ khuân vác, tiền quà cho những người sắp xếp trật tự tại nơi phát chẩn.)
12/06/2021(Xem: 5130)
Bài này được viết để hồi hướng các thiện hạnh có được để nguyện xin bình an và giải thoát cho tất cả đồng bào nơi quê nhà, vá cho chúng sanh khắp ba cõi sáu đường. Trong bài là một số ghi chú trong khi đọc Kinh luận, không nhất thiết theo một thứ tự nào. Các đề tài phần lớn ít được nhắc tới, nhưng đa dạng, có thể là quan tâm của nhiều người, từ thắc mắc rằng có khi nào Đức Phật đã dạy về ăn chay, cho tới câu hỏi có cần tu đầy đủ tứ thiền bát định hay không, và vân vân. Nơi đây sẽ tránh các lý luận phức tạp, chủ yếu ghi các lời dạy thực dụng từ Kinh luận để tu tập. Bản thân người viết không có thẩm quyền nào, do vậy phần lớn sẽ là trích dẫn Kinh luận.
10/06/2021(Xem: 14569)
NGỎ Từ khi vào chùa với tuổi để chỏm, Bổn sư thế độ đã trao cho tôi bản kinh "Phật thuyết A-di-đà" bằng chữ Hán, bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập và dạy phải học thuộc lòng, rồi theo đại chúng đi thực tập tụng kinh vào mỗi buổi chiều. Học và tụng thuộc lòng ngâm nga vào mỗi buổi chiều, mà chẳng hiểu gì, nhưng tôi lại rất thích. Thích không phải vì hiểu mà thích là vì được tụng kinh, lời kinh của Phật. Thích không phải vì hiểu, mà thích vì niềm tin xuất gia của mình được đặt trọn vẹn vào thời kinh mình đang tụng ấy. Và mỗi khi tụng, lại thấy gốc rễ tâm linh của mình lớn lên. Nó lớn lên mỗi khi mình tụng và nó lớn lên mỗi ngày, đến nỗi thấy cái gì ở trong chùa cũng đẹp, cũng thánh thiện và thấy ai đến chùa cũng đều phát xuất từ tâm hồn thánh thiện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]