Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Độ ta không độ Chàng

28/11/202012:57(Xem: 6045)
Độ ta không độ Chàng

Độ ta không độ Chàng
buddha-455

Chàng vẫn thường chê tôi, chỉ giỏi phân tích sự kiện chứ không có đầu óc tổng hợp. Được rồi! Hôm nay tôi sẽ tổng hợp tất cả các bài Pháp của các Vị nói về đề tài nóng bỏng đang thiêu đốt các dân cư mạng, chỉ một bài hát thôi mà số người lướt sóng lên đến hàng chục triệu lần. Chẳng là gì cả, chỉ câu truyện tình liên quan đến chốn Thiền Môn, chàng là ông Thầy Tu, nàng là cô Quận Chúa. Thuở bé nàng vẫn thường theo cha đến Chùa, Tể tướng thì đàm đạo với Đại Hòa Thượng, tiểu thư "nhí" chơi đùa với "tiểu" Hòa Thượng, hay mua kẹo Hồ Lô tặng chú tiểu, cũng một loại "Tình yêu đi qua bao tử". Thế rồi thời gian thấm thoát thoi đưa, sau mười năm cặp đôi này trở thành một đôi trai thanh gái tú. Nàng đòi ở luôn trong Chùa, nhất định không chịu về, Chàng Thầy tu phải đuổi về vì phạm giới luật của một Chùa Tăng. Thế là Nàng ra đi để rồi mất dấu chân chim, một thời gian sau nghe tin Nàng tự vẫn vì bị tên Thái Tử háo sắc làm nhục. 

Vị Thầy kia đau đớn, ca bài "Độ ta không độ Nàng" một cách bi thương:

 

Phật ở trên kia cao quá!

Mãi mãi không độ tới Nàng... 

 

Nếu câu chuyện đến đây chấm dứt, có lẽ không sai lạc gì nhiều với Phật giáo. Ta có thể đem kinh điển ra giải thích cho vị Thầy kia đừng ngồi đó kêu gào, tại sao Phật từ bi đến thế mà Ngài không chịu độ Nàng, để cho Nàng phải chết tức tưởi như thế! 

Vị Thầy đó nên giở Kinh Pali ra đọc lại, trong đó có câu: "Độ ngã bất độ tha", nghĩa là Phật chỉ độ ta, vì trong ta có Phật; không độ Nàng, vì trong Nàng chỉ có hình bóng vị Thầy và tràn ngập những ái nhiễm, làm sao Phật độ được mà kêu gào.

Hay nói dễ hiểu hơn là Phật chỉ độ người có duyên thôi! Vào thời xa xưa Phật chỉ thọ ký cho Đề Bà Đạt Đa thành Phật, chứ không độ được cái ông anh họ lúc nào cũng lăm le tìm cách hại Người. Cũng như câu chuyện bà vợ của Trưởng giả Cấp Cô Độc, cứ hay cằn nhằn chồng đem tiền vàng ra cúng cho giáo đoàn của Đức Phật, đến Phật còn phải bó tay với người đàn bà lắm lời này! Thế nhưng chú tiểu La Hầu La lại độ được bà ta, vì nhân duyên trong một kiếp nào đó họ là mẹ con với nhau, vừa gặp mặt đã thương nhau rồi.

 

Thế nhưng câu chuyện với đoạn kết thật đời thường, như những phim kiếm hiệp: "Nợ máu phải trả bằng nợ máu", bài bác cái tinh thần "Lấy từ bi xóa bỏ hận thù" của đạo Phật. 

Không thể nào có hình ảnh một ông Thầy tu, nghe tin người yêu của mình bị chết một cách tức tưởi đã cởi áo tu, cầm gươm đi giết người để báo thù. Người thường còn không làm nổi huống gì một ông Thầy tu!

 

Trong câu chuyện này có nhiều điểm không được lô-gíc cho lắm! Chẳng hạn như ông Thầy tu suốt đời ở trong Chùa tu hành, chỉ biết cầm chuông gõ mõ, chưa biết cầm dao cho dù giết một con muỗi. Thế mà Ngũ Lực của ông ở đâu không trổi lên kìm hãm việc cầm gươm đi tìm tên Thái Tử để đâm vài nhát hay chặt đầu.

 

Một điểm vô lý nữa, Thái Tử đi đến đâu cũng được "Tiền hô hậu ủng", lính Ngự Lâm Quân túc trực kề bên, một vị Thầy tu trói gà không chặt làm sao đến gần để báo thù.

Tôi nghe xong câu chuyện, chưa kịp phân tích lời bài hát đã tức cành hông rồi!

 

Ấy thế mà bài hát đã được số đông mọi người yêu thích điên cuồng, vặn đi vặn lại hát theo đến thuộc lòng. Các quán cà phê nước ngọt cho hát ra rả suốt ngày, các tài xế lái xe đường trường bắt hành khách cùng cảm thương cho nhân vật và lời ca của bản nhạc.

Ôi, cả một hiện tượng kỳ lạ chỉ xảy ra tại đất nước Việt Nam ta. Chứ nơi xuất xứ bài nhạc tại nước láng giềng khổng lồ lại không thành công cho lắm. Nếu bản nhạc này đưa qua các nước Hồi giáo, Ả Rập hay Ấn Độ, chắc chẳng chiêu cảm được ai.

Nhưng vào Việt Nam lại "hot" đến không ngờ, điều này chứng tỏ Phật giáo đã đi vào lòng muôn dân, tuy nội dung bài hát vẫn còn lạc điệu không đúng với kinh điển, nhưng qua bài hát thiên hạ biết đến Đạo Phật, biết các từ ngữ Phật học qua lời bài hát.

 

Đến độ một bác tài người Công giáo, chở phái đoàn hành hương đi xa, miệng lẩm nhẩm hát theo lời bài ca "Độ ta không độ Nàng" một cách say sưa. 

 

Để không bị loạn tâm, tôi không nhắc tới lời bài hát nguyên thủy, chỉ trích đoạn lời cải biên của một vị Thầy nào đó, tôi tình cờ tìm thấy trên mạng với tựa đề "Tự thân Nàng hãy cứu độ Nàng":

 

Phật ngự tòa uy nghi quá. 

Cứu giúp nhân sinh khổ nạn.

Đời người còn si, dục, tham. 

Cứ mãi không buông xác phàm. 

 

Vào chùa tịnh tâm hỡi nàng.

Bồ đề xin kết thiện duyên.

Kệ kinh ngày đêm gìn giữ.

Lòng ta nguyện hướng thế tôn.

........

 

Tự mình soi gương phản chiếu. 

 

Ngày ngày chánh pháp tịnh tu.

Tự thân nàng ơi hãy độ nàng.

 

Nếu Nàng làm đúng như lời bài hát trên, khỏi cần cầu xin Phật độ, tự động Chánh Pháp của Phật đã độ cho Nàng rồi. 

 

Nhưng xét theo tâm người đời, tôi trộm nghĩ, nếu lời bài hát nguyên thủy đúng theo chánh pháp như trên, chắc đã không nổi tiếng đi vào lòng người như thế! Cứ đem chuyện tình Lan và Điệp ra đối chiếu, tôi thấy cũng hơi na ná. Nhắc đến cửa Chùa, thiên hạ lại đem chuyện Lan "Cắt đứt giây chuông" với Điệp ra ca vọng cổ. Thấy ai còn trẻ đi tu, họ cũng gán cho cái "mác" thất tình nên mới đi tu. Kiến thức về Phật giáo chỉ bấy nhiêu thôi, nhưng ai ai cũng biết Ông Phật rất từ bi. Cứ đau khổ thất tình kiếm cổng Chùa bước vào là an toàn hơn uống thuốc chuột, hay nhảy lầu tự vẫn.

Cứ nghĩ đến Phật, chắc chắn Phật sẽ độ ngay, chân lý này không bao giờ thay đổi. 

 

Bắt đầu cho câu truyện này là tác phẩm "Tắt lửa lòng" của nhà văn Nguyễn Công Hoan thời Tự Lực Văn Đoàn vào những năm "Mi-nớp-xăng cà cộ". Sau các nhà soạn giả cải lương mới viết tuồng "Hoa rơi bên cửa Phật" lấy không biết bao nhiêu là nước mắt của người xem, dĩ nhiên trong đó có tôi. Cô đào cải lương nào muốn đoạt giải "Tiếng ca vàng thủ đô" phải biết ca thật mùi sáu câu:

 

Tín nữ ơi, tín nữ đi tu làm sao cho thành chánh quả.

Bởi vì lớp phấn son còn đọng trên đôi má... phong... í... trần...

 

(Hình như câu này nằm trong vở Nửa đời hương phấn thì đúng hơn!). 

 

Trở về chuyện cô Lan của Tắt lửa lòng, nàng Lan đã vào Chùa thế phát xuất gia, cạo tóc nhưng chưa cạo tâm nên vẫn sầu muộn bi thương biến thành tâm bệnh mà chết. Uổng quá đi thôi! Giáo Pháp của Như Lai vi diệu đến thế mà nàng không chịu học, đầy rẫy những pháp môn cứu khổ nàng không chịu đem ra áp dụng.

 

Chết thật lãng nhách! Điệp của nàng khóc lóc vật vã một thời gian rồi cũng lấy vợ khác thôi. Nói theo bọn trẻ là "Show must go on" như bài hát nổi tiếng của Queen, diễn Nôm là "Rồi cuộc đời vẫn trôi", trôi mãi. 

 

Trở lại câu chuyện tình của tôi và Chàng. Thế tôi có độ hay cứu vớt gì cho Chàng không? Cứ để Chàng nhớ nhung, luyến tiếc mãi cuộc tình không lối thoát này làm sao sống an lạc được.

Có bạn nhắc nhở, tôi có hoang tưởng không? Cả mấy tháng nay không nhận được tin tức gì của Chàng, làm sao dám quả quyết là Chàng đang khắc khoải. Ấy! Tôi nói có sách, mách có chứng, hôm qua vừa vào Facebook của Chàng moi tin tức, Chàng viết rành rành như thế này:

-  Anh còn nợ em...

Đòi nhau kỷ niệm thế này, lấy đâu ra mà trả? 

Ai cũng không chịu trả có khi còn bi kịch hơn nữa... 

 

Chàng còn nợ tôi ghế đá công viên, còn nợ những buổi hẹn hò ở quán Coffee Time, hay món Bún đậu chấm tương tại quán Phủi. Hai đứa ở hai phương trời cách biệt thế này lấy đâu ra mà trả? Chàng không chịu trả, tôi đây cũng không, có khi còn bi kịch hơn nữa... 

 

Vậy bi kịch nào có thể xảy ra? Cùng lắm là như Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài, cả hai đều biến thành đôi bướm bay chập chờn bên nhau. Chẳng làm hại ai cả, chỉ làm đẹp cho đời! 

Còn hẹn nhau kiếp sau ư, khi hiểu đạo tôi đây xin kiếu! Cứ nhìn mấy đời mấy kiếp tôi đi tìm anh kép hát đã thấy tởn thần rồi, biết rõ vậy mà vẫn chui đầu vào được sao?

Dạo này tôi hay đi du lịch với cô bạn học thời áo trắng, Sen Ngọc rất đằm thắm như các cô gái Hàng Đào thời cổ xưa. Nhưng đóa sen này đã nhuốm nhiều bụi trần của cuộc đời nên nhìn đời hết bằng con mắt màu hồng. Nàng thấy tôi và Chàng cứ đòi nợ nhau bằng ghế đá công viên, hay vài ly cà phê vớ vẩn, bèn lên tiếng bày tỏ nỗi lòng:

 Tớ thèm vào ghế đá công viên, trả nợ phải bằng sổ hồng hay sổ đỏ hoặc iPhone mới quan tâm. 

 

Cô nàng có biết đâu tôi nợ Chàng một món nợ ân tình thật sâu đậm, bây giờ Chàng có đòi kiểu gì tôi cũng vui vẻ trả nợ. 

Nợ tiền còn trả được nhưng nợ tình biết trả sao đây? Hở Chàng?

 

Trước khi bước qua chương khác, tôi phải tổng kết lại ý tứ, nội dung của chương đã được lấy ra để làm tựa đề cho cả một trường thiên. Chương này là cốt lõi của cả một vấn đề sinh tử tôi muốn gửi gấm đến Chàng. 

 

Cả đời tôi đi tìm tôi, tìm kiếm mãi mới nhận ra rằng, chỉ có ta mới độ được cho ta mà thôi. Tất cả các giáo pháp, lời hay ý đẹp đều là phương tiện cho ta nương theo để đạt được cứu cánh. Mục đích sau cùng vẫn là làm sao sống cho được an lạc, từ thân đến tâm, mỗi phút giây sống là một tặng phẩm của đất trời. Chàng không thấy tôi mỗi ngày đều gửi cho Chàng qua Viber ít nhất một tấm hình cười toe toét, cười rạng rỡ. Một nụ cười khiến ai nhìn thấy cũng hoan hỷ, cũng đọc thấu suốt được cái tâm của người mẫu, đã vào lứa tuổi Nhìn những mùa thu đi, nhưng vẫn tràn đầy nhựa sống.

Tôi hứa với lòng, cho dù biết mình ngày mai sẽ chết, hôm nay tôi vẫn cười rạng rỡ. Ấy chết! Nhỡ mình lúc đó đang bị "Vô Thường Lão Gia" dần cho một cơn bệnh thập tử nhất sinh, không biết có còn đủ sức để cười mếu máo, chứ nói chi đến rạng rỡ mà hứa với lòng! 

Sang đến mệnh đề hai, "Không độ Chàng". Như đã nói từ đầu chương, Chàng phải tự độ lấy Chàng, tôi chỉ mang đến cho Chàng niềm vui và nụ cười. Nguồn năng lực của tôi có chiêu cảm được Chàng, bắt Chàng phải bắt chước tôi buông bỏ mọi phiền muộn, khổ đau của cuộc đời để sống đời an lạc, giản dị. Chàng có muốn như thế không? Hay muốn mà làm không được?

Chàng hãy tự độ cho mình!

 

 

Hoa Lan - Thiện Giới.

2020.




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/01/2021(Xem: 7843)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4880)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9966)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 6072)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5575)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 6334)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 7053)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5848)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
28/12/2020(Xem: 5690)
Moscow: Thuật ngữ “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” mô tả một dạng thiền cao cấp trong truyền thống Kim Cương thừa, thường được thực hành bởi các tu sĩ Phật giáo trong trạng thái quá độ sang sự chết, được gọi là trung hữu – bardo (chìa khóa để giải mã những Bí mật của Nghệ thuật sinh tử). Trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” đã được các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu Và Tìm hiểu trong nhiều năm, với sự lãnh đạo của Tiến sĩ ngành tâm lý và tâm thần học - Richard Davidson thuộc Đại học Wisconsin-Madison (Mỹ), người sáng lập và Chủ tịch Trung tâm Tâm Trí Lực (Center for Healthy Minds).
28/12/2020(Xem: 5572)
Phật giáo đồ các quốc gia Đông Á, thường Kỷ niệm ngày Đức Phật Nhập Niết bàn vào tháng 2 Âm lịch. Nhưng tại địa phương tôi, Trung tâm Thiền miền Bắc Carolina (the North Carolina Zen Center) lại tổ chức Kỷ niệm ngày Đức Phật Thành đạo vào tháng 12 Âm lịch, với một buổi chia sẻ Pháp thoại với Thanh thiếu niên Phật tử, một buổi lễ thắp nến lung linh, tỏa sáng ánh đạo vàng từ bi, trí tuệ, và một bữa ăn tối sau lễ Kỷ niệm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]