Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

187. Thiền Sư Triệu Châu Tùng Thẩm (778-897) Đời thứ 4 sau Lục Tổ Huệ Năng

19/11/202016:10(Xem: 17204)
187. Thiền Sư Triệu Châu Tùng Thẩm (778-897) Đời thứ 4 sau Lục Tổ Huệ Năng




Nam mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học bài 187 về Thiền Sư Triệu Châu Tùng Thẩm ( 778 - 897 ). Ngài thuộc đời thứ tư sau Lục Tổ Huệ Năng.
Ngài là một trong những thiền sư nổi tiếng để lại dấu ấn trong đời tu học và giáo hoá. Ngài ngộ đạo sớm lúc 18 tuổi và trải qua 40 năm đào luyện nội tâm với Sư phụ Nam Tuyền Phổ Nguyện.

Khi Sư Phụ viên tịch, Ngài lên đường hành khước, vấn đạo và pháp chiến với 80 thiền sư khác trong 40 năm kế tiếp. Khẩu khí của ngài để lại cho đời là "Trẻ con bảy tuổi hơn ta thì ta hỏi nó, ông già trăm tuổi chẳng bằng ta thì ta dạy họ".


Ngài xuất gia từ thuở bé ở chùa Hỗ Thông nơi làng của Ngài. Sau khi thọ giới Sa di, Ngài xin SP lên đường tới tham học với Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện, và gặp TS đang nằm nghỉ trong phương trượng.


TS Nam Tuyền hỏi :”vừa rời từ đâu tới”
Ngài thưa :”vừa rời đoan tượng tới”
Sư Phụ giải thích :”đoan là nghiêm trang, tượng là con voi”.
TS Nam Tuyền hỏi :”có thấy đoan tượng chăng?”
Ngài thưa :”không thấy đoan tượng nhưng chỉ thấy Như Lai nằm”.
TS Nam Tuyền ngồi dậy hỏi :”con là sa đi có chủ hay là sa di không có chủ?”.
Ngài thưa là có chủ. TS Nam Tuyền hỏi, chủ ở chỗ nào?
Ngài chấp tay thưa :”giữa mùa đông gió rét, ngưỡng mong tôn thể của Hoà thượng được muôn Phước”.
TS Nam Tuyền thầm khen ngợi và gật đầu cho vào chúng tu học.

Năm Ngài 18 tuổi, Ngài hỏi TS Nam Tuyền :”Thế nào là đạo”. TS trả lời :”Tâm bình thường là đạo”. 

Ngài hỏi Sư Phụ Nam Tuyền: "Thế nào là Đạo?"
Sư Phụ Nam Tuyền đáp: "Tâm bình thường là Đạo".
Ngài hỏi: "Con có thể hướng đến "đạo ấy" không?"
Sư Phụ Nam Tuyền đáp: "Nghĩ tìm đến đạo là trái."
Ngài lại hỏi: "không nghĩ suy về đạo thì làm sao biết được Đạo?"
Sư Phụ Nam Tuyền đáp: "Đạo không thuộc về hiểu biết hay không hiểu biết. Biết là vọng giác (khái niệm), không biết là vô ký (vô minh). Nếu thật đạt Đạo thì không còn nghi ngờ, [Đạo] như hư không thênh thang rộng rãi, đâu thể gượng nói là phải là quấy."
Ngài nghe những lời này lập tức ngộ được huyền chỉ, liền sụp lạy và tạ ơn Sư phụ.


Sư phụ giải thích " tâm bình thường" là bên trong không dấy khởi vọng niệm, bên ngoài không vướng nhiễm các pháp. Giữ được tâm bình thường ấy là đạt đến đạo, đạo ở đây chính là điểm đến cuối cùng của Phật Giáo,  điểm đến đó là cắt đứt sanh tử luân hồi, mọi hành giả không cần phải đi xa để tầm đạo và cái đạo ấy có mặt ngay bây giờ và tại đây, nếu hành giả nhận ra được.

Ngài Triệu Châu sau khi thấy Tánh rồi, hỏi sp Nam Tuyền tiếp tới phải làm gì? Sư phụ Nam Tuyền bảo: " Đến nhà đàn việt dưới núi làm con trâu đi ".

Ngài cảm tạ Sư Phụ đã chỉ dạy và được Sư phụ Nam Tuyền khen ngợi "Đêm qua canh ba trăng soi cửa".

Sư phụ giải thích "làm con trâu dưới núi " là bản nguyện " biến nhập trần lao tác Phật sự", chứng ngộ rồi phải xuống núi để hóa độ chúng sanh.
"Đêm qua canh ba trăng soi cửa" lời khen kỳ đặc của thiền sư, ý nói giữa đêm tối vô minh sanh tử mà có trăng sáng Phật tánh soi vào cửa sổ của lòng mình, đời mình đã thay đổi từ nay trở đi.


TS Triệu Châu có giai thoại uống trà rất nổi tiếng. Một vị tăng đến hỏi đạo, Ngài bảo uống trà đi, hỏi câu thứ nhì rồi câu thứ ba, Ngài vẫn bảo uống trà đi.

Sư phụ giải thích "uống trà đi" là thiền ngữ xuống lệnh cho hành giả "bặt dứt vọng niệm", chỉ có uống trà, thưởng thức vị trà và không còn gì nữa cả, không hỏi không đáp, không phải, không trái, không nhị biên, giữ chánh niệm trong giờ phút bây giờ và ở đây.


Năm 897, ngày 2 tháng 11, Ngài có chút bệnh, nằm nghiêng bên phải an nhiên thị tịch, thọ thế 120 tuổi.

Bạch Sư Phụ, chúng con kính tri ơn SP dày công biên soạn đến nay đã tới 187 bài pháp thoại về chư vị Tổ Sư, Thiền Sư; cuộc đời tu tập và hành đạo của mỗi vị như một huyền thoại, lung linh kỳ ảo đối với phàm phu tâm của chúng con. Chúng con xin phát nguyện tu tập để đạt được “Tâm bình thường là đạo”,  trong không vọng động, ngoài không vướng duyên, ngay đó thoát khỏi trầm luân sanh tử luân hồi, để không phụ lòng giáo hóa của quý Ngài.

Cung kính,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
( Montréal, Canada)





187_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Tung Tham (1)


KIẾN TÁNH
chỉ bước đầu để học Thiền 
Kính dâng Thầy bài thơ học pháp hôm nay với tất cả
sự thành kính tri ân những lời chỉ dạy xuyên qua thiền sử tích .. kính đa tạ, HH

Sa di có chủ khi mười tám tuổi, 
Mượn lời chúc  phước ...môn đệ Ngài Nam Tuyền . 
Kiến tánh chỉ bước đầu  tiên để học Thiền 
Thêm bốn chục năm " Bình thường Tâm là Đạo " .


Áo nghĩa thâm sâu, một niệm đừng khởi tạo . 
Bên ngoài chớ vướng nhiễm mọi  pháp trần, 
Tại đây bây giờ ...Phật  chánh  điện bản thân !
Ngộ huyền chỉ  " Còn tìm nghĩ là Trật ". 


Phật là phiền não, phiền não là Phật!
" Con chó có Phật tánh " công án nổi danh, 
 Không  ....do nghiệp thức bao che quanh
Có  .... biết nghiệp dục ái ....còn cố phạm ! 


Con trâu dưới núi, "người ấy" trăng chói sáng! 
Uống trà ... chánh  niệm muôn pháp nhất như 
Tiếp khách ..thượng, trung, hạ ...ấy tâm từ, 
Tám mươi tuổi dừng vân du truyền chân pháp.


Quan Âm thiền viện thêm bốn mươi năm hạ lạp,  
Viên tịch  an nhiên .. trăm hai mươi tuổi nhiệm mầu . 
Chân Tế Đại Sư ! Tùng Thẩm Triệu Châu, 
Vi diệu, giản đơn, Tổ Sư Thiền gương mẫu !


Huệ Hương 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/03/2015(Xem: 18941)
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
29/03/2015(Xem: 19441)
Giảng về diệu lý Bát Nhã của Bộ Kinh Kim Cang là pháp môn bình đẳng. Chúng ta phần đông đều không hiểu cho nên đầu lại thêm đầu, tướng lại thủ tướng đem cái pháp bình đẳng biến thành không bình đẳng.
28/03/2015(Xem: 9188)
Thuyết pháp là hạnh cao quý của người hoằng pháp vì họ là sứ giả của Như Lai, mang ánh sáng của chánh pháp rải đều khắp nhân gian khiến cho muôn người được hưởng cam lồ vị - sống hạnh phúc, chết bình an, hưởng an lạc ở nhàn cảnh, hay giải thoát, niết bàn. Hiện nay, sinh hoạt thuyết pháp phát triển sôi nổi ở nhiều nơi trong nước và hải ngoại.
26/03/2015(Xem: 8363)
Từ khi lộ ánh trăng thiền Tri ân sâu nặng cơ duyên cuộc đời Vô ngôn sáng giữa muôn lời Dấn thân thế sự, chẳng rời Tánh Không. ---
23/03/2015(Xem: 9929)
Từ xa xưa đã có hiện tượng cư sĩ tham gia tu tập Thiền, Tịnh Độ và học tập nghiên cứu Phật Học; nhưng thời cổ đại, việc cư sĩ tại gia học Phật là hành vi tự phát riêng lẻ, không có tổ chức đoàn thể đại chúng cùng tu tập. Trong quá trình lịch sử phát triển của Phật giáo Trung Quốc, các cư sĩ có vai trò rất tích cực trong việc học và hoằng dương đạo Phật, trải qua nhiều thời đại đã xuất hiện không ít những vị cư sĩ có cống hiến lớn lao với đạo. Đến thời nhà Thanh, do mạng mạch truyền thừa bị gián đoạn do đó khiến Phật Giáo suy yếu. Sau đó có cư sĩ Dương Nhân San phát tâm gánh vác, vận động lập ra hình thức đoàn thể cư sĩ để phục hưng Phật giáo. Tiến hành các hoạt động kết tập, in ấn, phát hành kinh điển, mở trường lớp, nghiên cứu Phật giáo, bồi dưỡng nhân tài, cải cách hưng long Phật giáo, đó chính là thời kỳ đầu phát triển của Cư sĩ Phật giáo.
20/03/2015(Xem: 9835)
Nhà sư Alan Piercey là một tu sĩ Phật giáo làm việc tại bệnh viện ở Burnie và cũng từng tham gia bán chocolate để gây quỹ. Đối với những cư dân ở bờ biển Tây bắc Burnie (Tasmania, Úc), thầy được biết đến với nhiều tên gọi, nhưng cái tên phổ biến nhất được lấy từ một bộ phim hoạt hình nổi tiếng. “Pháp danh tôi là Shih Jingang” (phát âm là Cher Gin Gun) - thầy nói. “Thế nhưng hầu hết mọi người sống quanh bệnh viện khu vực Tây bắc tại Burnie này gọi tôi là Sifu (sư phụ).
19/03/2015(Xem: 7919)
Đây không phải là lần đầu tiên tôi được Thọ Bát, được làm “Ni Cô chải tóc bên dòng suối“ một ngày một đêm đâu các bạn ạ! Từ bao năm nay hễ chùa Linh Thứu có lên lịch trình Thọ Bát là có mặt tôi, cho dù ngày ấy tuyết phủ ngập chùa, hay mưa dầm giăng lối. Nhưng chẳng bao giờ tôi tu trọn vẹn được đầy đủ 24 giờ tinh khôi cả, cứ buổi cháo chiều vừa dùng xong tôi đã tìm đường ra xe về nhà để sáng mai lên chùa sớm cho kịp buổi công phu khuya. Hay nhiều khi không thể tham dự được tôi cũng cố lên chùa nghe cho được bài Pháp mới thật hả dạ. Tất cả cũng chỉ vì Gia Duyên còn ràng buộc như câu các Thầy truyền giới vẫn thường đọc trong những buổi Thọ Bát Quan Trai, nên sự thể mới như vậy mà thôi.
19/03/2015(Xem: 7693)
Những Nguyên Nhân Của Hành Động Nầy các Tỳ Kheo, có ba nguyên nhân bắt nguồn của hành động. Ba nguyên nhân nầy là ba nguyên nhân gì? Đó là: lòng tham lam, lòng thù hận, và sự si mê (tham, sân, si). [32] Một hành động khi làm với lòng tham lam, sinh ra từ lòng tham lam, gây ra bởi lòng tham lam, phát sinh ra từ lòng tham lam, sẽ chín muồi bất cứ nơi nào người nầy tái sinh; và bất cứ khi nào hành động chín muồi, người nầy nhận lấy kết quả của hành động, ở trong đời nầy, hoặc là trong đời sau, hoặc là trong những đời kế tiếp sau đó. [33]
19/03/2015(Xem: 8369)
Theo quan điểm của Phật giáo “hạnh phúc” là sự đoạn trừ tâm tham ái, để hiểu rõ vấn đề này, người viết xin chia sẻ quý vị quan điểm này như sau: Chúng ta đang sống trong cõi Ta-bà như mảnh vườn hoang luôn bị chế ngự bởi dục vọng khổ đau, bệnh tật, sầu hận, chết chóc… Con người bao giờ cũng muốn vươn lên từ đời sống thấp hèn để tìm một cái gì đó cao đẹp và an lạc hơn đằng sau bức tường đầy sự hấp dẫn của ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) mà con người cảm nhận qua tri giác hay còn gọi là tham ái.
15/03/2015(Xem: 6696)
Tôi có hai người bạn. Là bạn nhưng họ trẻ hơn tôi quãng chục tuổi. Là bạn vì chúng tôi khá quý mến nhau, có nhiều điểm tương đồng và hay sinh hoạt bên nhau. Tên khai sinh của họ là Châu Thương và Mỹ Hằng. Pháp danh của hai bạn này là Nguyên Niệm là Thánh Đức. Điểm thú vị rằng đây lại là một cặp vợ chồng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]