Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khái lược sự Truyền bá Đạo Phật tại Châu Á

05/11/202019:14(Xem: 5966)
Khái lược sự Truyền bá Đạo Phật tại Châu Á

Khái lược sự Truyền bá Đạo Phật tại Châu Á

(Spread of Buddhism in Asia Summary)

 Spread of Buddhism in Asia Summary 1

Mặc dù đạo Phật chưa bao giờ phát triển một phong trào truyền giáo, nhưng ánh sáng như Nhật Nguyệt, Từ bi, Trí tuệ, Hùng lực của Đức Phật đã tỏa chiếu khắp muôn nơi trong suốt gần 26 thế kỷ: trước nhất là Đông Nam Á, rồi xuyên qua Trung Á đến Trung Hoa và vùng còn lại là của Đông Á và cuối cùng đến Tây Tạng, Bhutan và các vùng xa hơn ở Trung Á.

 

Thông thường, sự tỏa sáng của đạo Phật phát triển một cách tự nhiên ở những vùng này, vì sự quan tâm của người dân địa phương đến tín ngưỡng của thương nhân nước ngoài đối với Phật giáo. Đôi khi các lãnh tụ quốc gia cai trị đất nước cung kính tiếp nhận và ứng dụng Phật học để mang lại giá trị nhân văn đạo đức cho nhân dân, nhưng không ai bắt buộc cải đạo. Bằng cách phổ biến thông điệp Tự do, Bình đẳng, Đại Hùng lực, Đại từ bi, Đại Trí tuệ khắp đến công chúng, moin người có thể tự do lựa chọn những gì hữu ích.

 

Triết lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đạo Tự do, Bình đẳng đã lan truyền mổ cách hòa bình trên khắp tiểu lục địa Ấn Độ, và từ đó lan truyền rộng khắp vùng châu Á. Sự linh hoạt của Phật giáo Đại thừa với cơ chế bản địa hóa (khế cơ, khế lý), vì thế bất kỳ khi nào đến với nền văn hóa mới thì các phương tiện thiện xảo và phong cách của đạo Phật sẽ được linh động để phù hợp với tâm lý, dân phong, quốc tục của người dân địa phương, mà không ảnh hưởng đến những điểm thiết yếu như Từ bi tâm và Trí tuệ. Phật giáo không bao giờ phát triển một hệ thống phân cấp tôn giáo, nói chung có cấp thẩm quyền với vị lãnh đạo tối cao. Thay vào đó, mỗi quốc gia mà đạo Phật lan truyền đến sẽ phát triển những hình thức riêng, cấu trúc tôn giáo riêng, và nhà lãnh đạo tâm linh riêng của quốc gia đó.

 

Hiện nay, những người danh tiếng nhất và được kính trọng ở cấp độ quốc tế trong số các vị lãnh đạo Phật giáo là Đức Đạt Lai Lạt Ma, Khôi nguyên Nobel Hòa bình, lãnh tụ tinh thần lưu vong của Tây Tạng và Thiền sư Thích Nhất Hạnh, vị thiền sư Việt Nam, giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà hoạt động xã hội và là nhà sư nổi tiếng của Phật giáo thế giới, nhận được rất nhiều sự ngưỡng mộ của những người nổi tiếng trên thế giới và thu hút sự quan tâm của truyền thông quốc tế.

 

Lược sử

 

Đạo Phật được có hai chi nhánh. Tiểu thừa (Cỗ Xe Nhỏ), nhấn mạnh đến sự giải thoát cá nhân, trong khi Đại thừa (Cỗ Xe Lớn), nhấn mạnh việc tu tập để thành một vị Phật toàn giác, để có thể phổ độ chúng sinh. Cả hai cỗ xe Nhỏ và Lớn lại có nhiều nhánh nhỏ.

 

Hiện nay, chỉ có ba hình thức chính còn tồn tại: một nhánh nhỏ của Tiểu thừa ở Đông Nam Á, được biết như Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada), và hai nhánh Đại thừa, đó là các truyền thống Phật giáo Trung Quốc và Tây Tạng.

 

* Truyền thống Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) lan truyền từ Ấn Độ đến Sri Lanka và Burma (Myanmar) vào thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch. Từ đó, đạo Phật đi đến các vùng còn lại của Đông Nam Á (Thái Lan, Lào, Campuchia, miền Nam Việt Nam, kể cả Nam Dương (Indonesia).

 

* Các trường phái khác của Tiểu thừa lan truyền đến Pakistan, Afghanistan ngày nay, miền Đông và duyên hải của Iran và Trung Á ngày nay. Trừ Trung Á, các trường phái này lan truyền sang Trung Quốc vào thể kỷ thứ 2 sau Tây lịch. Sau đó, các hình thức Tiểu thừa này được kết hợp với sắc thái Đại thừa, là truyền thống đã đến đây theo cùng một con đường từ Ấn Độ, và cuối cùng thì Đại thừa trở thành hình thức Phật giáo chiếm ưu thế ở Việt Nam, Trung Quốc và hầu hết vùng Trung Á. Sau đó, hình thức Đại thừa Trung Quốc đã lan truyền đến Hàn Quốc, Nhật Bản.

 

* Truyền thống Đại thừa Tây Tạng bắt đầu vào thế kỷ thứ 7 sau Tây lịch, kế thừa toàn bộ lịch sử phát triển của Phật giáo Ấn Độ. Từ Tây Tạng, nó lan truyền khắp các vùng Hy Mã Lạp Sơn và đến Mông Cổ, Trung Á, và một số vùng ở Nga (Buryatia, Kalmykia và Tuva).

 

Ngoài ra, trước kỷ nguyên Tây lịch các hình thức Đại thừa Phật giáo của Ấn Độ đã lan tỏa đến Việt Nam, và từ thế kỷ thứ 2 sau Tây lịch, đạo Phật lan tỏa đến các quốc gia, Campuchia, Malaysia, Sumatra và Java (Indonesia ngày nay) dọc theo con đường hàng hải thương mại từ Ấn Độ đến Nam Trung Hoa.

 Spread of Buddhism in Asia Summary 2

Sự truyền bá của đạo Phật như thế nào?

 

Sự lan rộng của Đạo Phật ở hầu hết Châu Á đã diễn ra trong hòa bình, và đã diễn ra theo nhiều cách. Đấng Đại giác Thế tôn, Thích Ca Như Lai, bậc thầy du hóa khắp muôn nơi để chia sẻ tuệ giác với những người có phúc duyên được tiếp cận và quan tâm từ các vương quốc lân cận, đã đặt ra tiền lệ. Ngài hướng dẫn giáo đoàn Tăng sĩ thanh tịnh hòa hợp chúng đi khắp nơi trên thế giới để giảng giải triết lý đạo Phật Tự do, Bình đẳng, Từ bi, Trí tuệ, Hùng lực. Ngài không kêu gọi người khác lên án và từ bỏ tôn giáo của họ, và cải đạo chuyển sang một tôn giáo mới, vì ngài không tìm cách thiết lập tôn giáo riêng của mình.

 

Mục tiêu của Đức Phật là chỉ giúp người khác vượt qua những nỗi khổ niềm đau mà bản thân họ tự tạo ra và chuốc lấy hậu quả, vì thiếu hiểu biết về thực tại. Các thế hệ sau này được truyền cảm hứng từ đài gương sáng vĩ đại của Đức Phật, và họ chia sẻ với người khác những phương tiện của ngài mà họ thấy hữu ích cho đời sống của họ. Đây là cách mà hiện nay, điều được gọi là “đạo Phật, Buddhism đã lan xa và rộng khắp.

 

Đôi khi, quá trình này cũng tiến triển một cách tự nhiên. Ví dụ, khi các thương gia doanh nhân Phật tử viếng thăm và định cư ở những vùng đất khác nhau, một số dân địa phương tự nhiên sẽ quan tâm đến tín ngưỡng của những người ngoại quốc này, cũng như cách đạo Hồi được đưa vào Indonesia và Malaysia sau này.

 

Tiến trình này cũng xảy ra đối với đạo Phật ở những quốc gia ốc đảo, dọc theo Con Đường Tơ Lụa ở Trung Á, trong hai thế kỷ trước và sau Tây lịch. Khi các nhà cai trị địa phương và người dân đã hiểu biết thêm về tôn giáo Ấn Độ này, họ đã cung thỉnh chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo từ vùng bản xứ của các thương gia doanh nhân Phật tử này làm cố vấn hoặc giảng sư, và cuối cùng, nhiều người đã tôn kính đạo Phật như một tôn giáo bản địa. Một phương pháp tự nhiên khác là thông qua sự đồng hóa văn hóa lâu dài của một dân tộc bị thế lực ngoại bang chinh phục, chẳng hạn như người Hy Lạp đi vào xã hội Phật giáo của Gandhara ở miền Trung Pakistan hiện nay, trong các thế kỷ sau thế kỷ thứ 2, trước Tây lịch.

 

Thường thì sự phổ biến là do ảnh hưởng của một quốc vương quyền lực, người đã chấp nhận và ủng hộ đạo Phật. Vào giữa thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch, đạo Phật đã lan rộng khắp miền Bắc Ấn Độ, nhờ sự ủng hộ của cá nhân Vua A Dục (King Ashoka). Vị vua xây dựng đế quốc hùng mạnh này không hề bắt buộc thần dân của mình phải có niềm tin vào đạo Phật, nhưng bằng cách ban sắc lệnh được khắc trên những cột bằng sắt khắp nơi trong vương quốc của mình, hô hào dân chúng sống một cuộc đời đạo đức, và chính Vua A Dục cũng đã tuân thủ các nguyên tắc đạo đức (Ngũ giới), một nền Tâm linh và Đạo Đức Toàn cầu, việc làm cao cả của vị Minh quân Thánh triết Phật tử A Dục vương đã truyền cảm hứng cho công chúng áp dụng những lời vàng ngọc quý báu của Đức Phật vào cuộc sống thường nhật.

 

Vua A Dục cũng tích cực truyền đạo bên ngoài vương quốc của mình bằng cách gởi các nhà truyền giáo đến những vùng đất xa xôi. Đôi khi, nhà vua đã thực hiện điều này theo lời mời của những nhà cai trị nước ngoài, chẳng hạn như trường hợp Vua Devanampiya Tissa của Vương quốc Sri Lanka. Trong những dịp khác, nhà vua có sáng kiến gởi các nhà sư làm đặc sứ ngoại giao cho mình. Tuy nhiên, các nhà sư viếng thăm các nước ngoại quốc không hề tạo áp lực mạnh, khiến người khác cải đạo, mà chỉ đưa ra những lời dạy của Đức Phật, để người dân tự lựa chọn.

 

Điều này được chứng minh qua sự kiện ở những nơi như Nam Ấn Độ và Nam Myanmar, nơi mà đạo Phật đã nhanh chóng bén rễ, trong khi ở những nơi khác, chẳng hạn như các thuộc địa của Hy Lạp ở vùng Trung Á thì không có sự ghi nhận nào về ảnh hưởng tức thời như thế.

 

Những nhà vua sùng đạo khác, như nhà thống trị Altan Khan của Mông Cổ, vào thế kỷ 16, đã thỉnh các đạo sư Phật giáo đến vương quốc của họ, và công bố đạo Phật là tín ngưỡng chính thức của đất nước, để thống nhất dân tộc và củng cố quyền lực cai trị của họ.

 

Trong tiến trình này, có thể họ đã ngăn cấm một số hành trì tôn giáo của những người không theo đạo Phật, những tôn giáo bản xứ và thậm chí ngược đãi những người theo các tôn giáo này, nhưng những hành động nặng tay đó chủ yếu là do động cơ chính trị. Những nhà cai trị đầy tham vọng này chưa bao giờ bắt thần dân của họ chấp nhận các hình thức tín ngưỡng hay thờ phụng theo đạo Phật. Điều đó không có trong tín ngưỡng của tôn giáo này.

 

Tóm lược

 

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã bảo mọi người đừng nghe theo lời dạy của Ngài chỉ vì niềm tin mù quáng, mà phải khảo sát kỹ càng, trước khi chấp nhận giáo huấn của ngài. Nếu vậy thì làm sao người dân có thể chấp nhận những lời dạy của Đức Phật, chỉ vì sự ép buộc của các nhà truyền giáo hăng say, hay vì sắc lệnh của hoàng gia. Vào đầu thế kỷ 17, Toyin Neiji đã cố mua chuộc những người dân du mục phía Đông Mông Cổ theo đạo Phật, bằng cách tặng cho họ gia súc, với mỗi đoạn kinh mà họ học thuộc lòng. Dân du mục đã phàn nàn với chính quyền, và nhà sư hống hách này đã bị trừng phạt và lưu đày.

 

Bằng nhiều cách, đạo Phật đã lan truyền đến hầu hết châu Á một cách hòa bình, mang theo thông điệp đạo Phật, Tự do, Bình đẳng, Từ bi, Trí tuệ, Hùng lực, đồng thời phù hợp với nhu cầu và căn cơ khác nhau của người dân.

 

Tác giả: Dr. Alexander Berzin

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Study Buddhism)

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/03/2015(Xem: 18975)
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
29/03/2015(Xem: 19484)
Giảng về diệu lý Bát Nhã của Bộ Kinh Kim Cang là pháp môn bình đẳng. Chúng ta phần đông đều không hiểu cho nên đầu lại thêm đầu, tướng lại thủ tướng đem cái pháp bình đẳng biến thành không bình đẳng.
28/03/2015(Xem: 9231)
Thuyết pháp là hạnh cao quý của người hoằng pháp vì họ là sứ giả của Như Lai, mang ánh sáng của chánh pháp rải đều khắp nhân gian khiến cho muôn người được hưởng cam lồ vị - sống hạnh phúc, chết bình an, hưởng an lạc ở nhàn cảnh, hay giải thoát, niết bàn. Hiện nay, sinh hoạt thuyết pháp phát triển sôi nổi ở nhiều nơi trong nước và hải ngoại.
26/03/2015(Xem: 8410)
Từ khi lộ ánh trăng thiền Tri ân sâu nặng cơ duyên cuộc đời Vô ngôn sáng giữa muôn lời Dấn thân thế sự, chẳng rời Tánh Không. ---
23/03/2015(Xem: 9991)
Từ xa xưa đã có hiện tượng cư sĩ tham gia tu tập Thiền, Tịnh Độ và học tập nghiên cứu Phật Học; nhưng thời cổ đại, việc cư sĩ tại gia học Phật là hành vi tự phát riêng lẻ, không có tổ chức đoàn thể đại chúng cùng tu tập. Trong quá trình lịch sử phát triển của Phật giáo Trung Quốc, các cư sĩ có vai trò rất tích cực trong việc học và hoằng dương đạo Phật, trải qua nhiều thời đại đã xuất hiện không ít những vị cư sĩ có cống hiến lớn lao với đạo. Đến thời nhà Thanh, do mạng mạch truyền thừa bị gián đoạn do đó khiến Phật Giáo suy yếu. Sau đó có cư sĩ Dương Nhân San phát tâm gánh vác, vận động lập ra hình thức đoàn thể cư sĩ để phục hưng Phật giáo. Tiến hành các hoạt động kết tập, in ấn, phát hành kinh điển, mở trường lớp, nghiên cứu Phật giáo, bồi dưỡng nhân tài, cải cách hưng long Phật giáo, đó chính là thời kỳ đầu phát triển của Cư sĩ Phật giáo.
20/03/2015(Xem: 9894)
Nhà sư Alan Piercey là một tu sĩ Phật giáo làm việc tại bệnh viện ở Burnie và cũng từng tham gia bán chocolate để gây quỹ. Đối với những cư dân ở bờ biển Tây bắc Burnie (Tasmania, Úc), thầy được biết đến với nhiều tên gọi, nhưng cái tên phổ biến nhất được lấy từ một bộ phim hoạt hình nổi tiếng. “Pháp danh tôi là Shih Jingang” (phát âm là Cher Gin Gun) - thầy nói. “Thế nhưng hầu hết mọi người sống quanh bệnh viện khu vực Tây bắc tại Burnie này gọi tôi là Sifu (sư phụ).
19/03/2015(Xem: 7962)
Đây không phải là lần đầu tiên tôi được Thọ Bát, được làm “Ni Cô chải tóc bên dòng suối“ một ngày một đêm đâu các bạn ạ! Từ bao năm nay hễ chùa Linh Thứu có lên lịch trình Thọ Bát là có mặt tôi, cho dù ngày ấy tuyết phủ ngập chùa, hay mưa dầm giăng lối. Nhưng chẳng bao giờ tôi tu trọn vẹn được đầy đủ 24 giờ tinh khôi cả, cứ buổi cháo chiều vừa dùng xong tôi đã tìm đường ra xe về nhà để sáng mai lên chùa sớm cho kịp buổi công phu khuya. Hay nhiều khi không thể tham dự được tôi cũng cố lên chùa nghe cho được bài Pháp mới thật hả dạ. Tất cả cũng chỉ vì Gia Duyên còn ràng buộc như câu các Thầy truyền giới vẫn thường đọc trong những buổi Thọ Bát Quan Trai, nên sự thể mới như vậy mà thôi.
19/03/2015(Xem: 7733)
Những Nguyên Nhân Của Hành Động Nầy các Tỳ Kheo, có ba nguyên nhân bắt nguồn của hành động. Ba nguyên nhân nầy là ba nguyên nhân gì? Đó là: lòng tham lam, lòng thù hận, và sự si mê (tham, sân, si). [32] Một hành động khi làm với lòng tham lam, sinh ra từ lòng tham lam, gây ra bởi lòng tham lam, phát sinh ra từ lòng tham lam, sẽ chín muồi bất cứ nơi nào người nầy tái sinh; và bất cứ khi nào hành động chín muồi, người nầy nhận lấy kết quả của hành động, ở trong đời nầy, hoặc là trong đời sau, hoặc là trong những đời kế tiếp sau đó. [33]
19/03/2015(Xem: 8425)
Theo quan điểm của Phật giáo “hạnh phúc” là sự đoạn trừ tâm tham ái, để hiểu rõ vấn đề này, người viết xin chia sẻ quý vị quan điểm này như sau: Chúng ta đang sống trong cõi Ta-bà như mảnh vườn hoang luôn bị chế ngự bởi dục vọng khổ đau, bệnh tật, sầu hận, chết chóc… Con người bao giờ cũng muốn vươn lên từ đời sống thấp hèn để tìm một cái gì đó cao đẹp và an lạc hơn đằng sau bức tường đầy sự hấp dẫn của ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) mà con người cảm nhận qua tri giác hay còn gọi là tham ái.
15/03/2015(Xem: 6736)
Tôi có hai người bạn. Là bạn nhưng họ trẻ hơn tôi quãng chục tuổi. Là bạn vì chúng tôi khá quý mến nhau, có nhiều điểm tương đồng và hay sinh hoạt bên nhau. Tên khai sinh của họ là Châu Thương và Mỹ Hằng. Pháp danh của hai bạn này là Nguyên Niệm là Thánh Đức. Điểm thú vị rằng đây lại là một cặp vợ chồng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]