Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero, người Nổi tiếng Đương đại

31/10/202019:14(Xem: 4951)
Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero, người Nổi tiếng Đương đại

Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero,
người Nổi tiếng Đương đại

 Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero 1

Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero sinh ngày 1 tháng 7 năm 1961, vị tăng sĩ Phật giáo Sri Lanka, người kiến tạo Tu viện Phật giáo Mahamevnawa và Mạng lưới Truyền thông Shraddha. Ngài sinh ra trong một gia đình Thiên Chúa giáo, khi lên 6 tuổi cả gia đình Ngài đều quay về với đạo Tổ tiên Phật giáo.

 

Năm 1979, vào ngày 26 tháng 3, 17 tuổi xuân, Ngài đến ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara, miền đông Sri Lanka, đảnh lễ cầu xin xuất gia với Đại lão Hòa thượng Dambagasare Sumedhankara Mahā Thero, Trưởng của Sri Kalyaniwansa Nikāya và là Trụ trì ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara vào thời điểm đó. Và thụ giáo học Phật pháp với Trưởng lão Hòa thượng Dikwelle Pannananda Thero tại ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara.

 

Sau quá trình giáo dục đào tạo truyền thống Phật học Sri Lanka, trong khi thành đạt học vị với Bằng Danh dự Sinhala tại Đại học Sri Jayawardhanapura, Ngài đã có một cơ hội du ngoạn trong rừng thiền thăm thẳm, tung tăng lướt sóng trên biển Pháp mênh mông, Tam tạng giáo điển Pāli; bởi tâm nguyện chuyên tâm đèn sách đọc Tam tạng Thánh điển Phật học, Ngài đã từ bỏ cuộc sống chốn tòng lâm và bắt đầu ẩn tu nhập thất trong rừng sâu núi thẳm, dâng hiến cuộc đời mình cho Đạo pháp và Dân tộc.

 

Sau đó, đã có được kiến thức uyên thâm về Giáo pháp trong nghiên cứu Kinh tạng Pāli suốt thời gian 10 năm, Ngài đã thu thập được vô số kinh nghiệm trong cuộc đời của mình khi sống yên trên dãy Hy Mã Lạp Sơn ở Ấn Độ và rừng sâu núi thẳm Sri Pada ở Sri Lanka.

 

Đã vững tiến bước trên lộ trình giác ngộ giải thoát, và thực hiện đại nguyện hoằng dương chính pháp, thắp sáng ngọn lửa từ bi, trí tuệ, hùng lực của chư Phật, chư Tổ, Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero đã thành lập Tu viện Phật giáo Mahamevnawa vào tháng 8 năm 1999 tại Waduwava, Polgahawela, tây bắc Sri Lanka. Ngài vân du đó đây khắp nơi để kết duyên Bồ đề quyến thuộc Phật pháp ở nhiều nơi khác nhau trên quốc đảo Phật giáo Sri Lanka, Ngài đã tạo cho người dân tự phát huy chánh tín, niềm tự tin, đức tự chủ, mang lại niềm an lạc trong cuộc sống.

 

Ngài đã kiến tạo chi nhánh Tu viện Phật giáo Mahamevnawa, hiện có 58 tu viện chi nhánh tại Sri Lanka, và 28 tu viện ở các quốc gia, Canada, (3 ngôi) Hoa Kỳ, (4 ngôi) Úc, (5 ngôi) Vương quốc Anh,  (6 ngôi) Đức (7 ngôi) Ý, Dubai, Hàn Quốc và Ấn Độ.

 

Ngài đã trước tác hơn 300 tác phẩm bằng tiếng Sinhala và nhiều cuốn sách khác bằng tiếng Anh.

 

Những cuốn sách Phật học đó cùng với những đĩa CD chứa những bài giảng bằng ngôn ngữ Sinhala, đã nhận được nhiều lời tán thán  ngưỡng mộ từ công chúng.

 

Những ấn bản dịch thuật Kinh tạng đơn giản của Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero sang ngôn ngữ Sanhala văn phong thật trong sáng, giúp mọi người thuộc bất kỳ địa vị nào trong xã hội đều có thể đọc và hiểu được, là một công trình tuyệt vời bởi công cuộc hoằng pháp lợi sinh của Ngài.

 

Giảng dạy Giáo pháp Như lai mà không có những ý kiến cá nhân bất thường, bằng cách tuyên dương Diệu pháp của Đức Phật, là phẩm chất độc đáo trong công cuộc hoằng pháp xuất sắc của  Thượng tọa Kiribathgoda Gnānānanda Thero.

 Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero 2

Thông điệp của Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero

 

Những lời chúc phúc cát tường của Hòa thượng với những tư duy tuyệt hảo!

 

“Sự kiện hiếm hoi và tuyệt vời nhất đã xảy ra suốt 2.600 năm trong lộ trình lịch sử, sự xuất hiện của một nhà hiền triết trí tuệ siêu phàm, ‘Đấng Tự do Bình đẳng, Phật Thích Ca Mâu Ni’.

 

Trong cùng một thời đại, có một khát khao không nguôi trong con người, là tìm ra chân lý của cuộc sống, và để đạt được mục đích đó, họ đã thực hành nhiều phương pháp khác nhau. Tuy nhiên, những người tha thiết như vậy đã may mắn được soi sáng bởi trí tuệ tối cao của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đức Phật tối cao đã đi tìm họ, và cho họ thấy sự thật của cuộc sống ẩn giấu theo một cách độc đáo mà chưa ai từng đi qua.

 

Đó là sự thật đáng kinh ngạc và cuối cùng mà Đức Phật đã khám phá ra. Một khi họ nghe được những lời vàng ngọc quý báu của Đức Phật, họ đã trở thành những nhà hiền triết thời bấy giờ, mang “Kỷ nguyên Vàng” cho Ấn Độ. Với những kim ngôn khẩu ngọc của Đức Phật, con người đã giải thoát mình khỏi những nỗi khổ niềm đau. Họ đã học cách đối mặt với những thử thách trong cuộc sống của mình mà không đau lòng, và cuối cùng đã cố gắng tuyên bố rằng, họ đã đi đến tận cùng của Luân hồi – Vòng sinh tử.

 

Đức Phật, với tột cùng từ bi tâm của mình, đã cứu chúng sinh thoát khỏi khổ ải sông mê. Đây là thời điểm thành công nhất và đẹp nhất từng xảy ra trong lịch sử gần đây. Mức độ thông minh của con người trong thời đại chúng ta kém hơn so với trí tuệ của con người thời Đức Phật. Họ rất tiến bộ về lý luận và chiêm nghiệm về cuộc sống và không  bị mắc kẹt bởi những thị hiếu đơn giản, giả dối của cuộc sống . . . không giống như thời điểm hiện tại.

Đức Phật tối cao đã diễn thuyết về những cách khác nhau để nhận ra con đường bằng trí tuệ, bằng cách bác bỏ những huyền hoặc của cuộc sống, với những lời giải thích đúng đắn từ “thuyết Nhân quả”. Đạo Phật là tập hợp của những bài kinh cao quý như thế, Giáo pháp, đã đánh thức trí tuệ chân chính của nhân loại thời bấy giờ.

 

Sau khi Đức Phật Nhập diệt, tất cả các đệ tử cao quý (Tăng đoàn) của Ngài, những người đã đạt được Giác ngộ, đã bảo vệ Giáo pháp cho tương lai bằng ngôn ngữ 'Magadhi' (Pali), được sử dụng vào thời Đức Phật tại Ấn Độ. Tăng đoàn cao quý đã trở thành Sứ giả Như Lai, và truyền bá chính pháp Phật đà, tỏa sáng ánh đạo vàng Từ bi, Trí tuệ, Hùng lực khắp thế giới.

 

Sứ mệnh quan trong này đã được thực hiện, và chỉ đạo bởi vị anh minh Hoàng đế Phật tử, Đại hộ pháp Ashoka vĩ đại, vị vua thứ ba của vương triều Maurya thời Ấn Độ cổ đại, trị vì Ấn Độ từ năm 273 đến 232 trước CN. Là một trong những vị Anh minh Hoàng đế kiệt xuất trong lịch sử Ấn Độ, Ashoka đã toàn thắng trong loạt các cuộc chinh phạt và cai trị phần lớn vùng Nam Á, từ Afghanistan cho đến Bengal hiện nay và đi sâu đến miền Nam tận Mysore. Là một vị vua ủng hộ Phật giáo, nhưng từ thuở mới lên ngôi, ông được mệnh danh là Quốc vương Ashoka bạo ác, ông lập ra những khung hình phạt tàn ác giống như các cảnh mô tả trong địa ngục để hành hình tội nhân, và ông đặt tên cho các ngục ấy là địa ngục trần gian. Về sau ông Quy y Tam Bảo và ông đã lập nhiều bia đá ghi lại những thánh tích trong cuộc đời Phật Thích-ca Mâu-ni và theo truyền thống Phật giáo, tên ông gắn liền với việc lưu truyền Phật giáo.

 

Theo sau cuộc Kết Tập Kinh Điển lần thứ 3 (năm 254 TTL), Quốc vương Ashoka đã cử nhiều phái đoàn hoằng pháp ra nước ngoài như Sri Lanka, Myanmar, Malaysi và Sumatra. Ngoài việc chăm lo đời sống ấm no cho người dân, thương dân như con cái, Quốc vương Ashoka còn chăm lo truyền bá ánh sáng của Chính Pháp đến cho dân chúng trong và ngoài xứ Ấn. Quốc vương Ashoka đã hướng dẫn hai người con Hoàng thái tử Mahinda và Công chúa Singhamiha xuất gia làm tăng ni, gia nhập tăng đoàn tu học và sau đó được gởi sang Sri Lanka để hoằng pháp vào khoảng giữa thế kỷ thứ 3 TTL. Phái đoàn hoằng pháp do nhị vị Thánh tăng Thượng tọa Mahinda và Ni sư Singhamiha dẫn đầu đến Sri Lanka để truyền đạo, đã mang theo Tam tạng Thánh giáo và một cây Bồ Đề để trồng tại Sri Lanka, cây Bồ Đề này hiện nay vẫn còn và là một biểu tượng thiêng liêng cao quý đối với Phật tử Sri Lanka. Phái đoàn hoằng pháp này đã thành công khi cảm hóa được đức vua Sri Lanka là Devanampiya Tissa tin theo Phật Pháp và trở thành người hộ trì Chính Pháp tại Sri Lanka qua việc phát tâm xây dựng một Đại Tự (Mahavihara) ở thủ đô Anuradhapura, mở đầu cho việc truyền bá ánh sáng Chánh Pháp trên xứ sở này, để rồi sau đó Phật Pháp được lan tỏa đến Myanmar,Thái Lan và những quốc gia Á Châu khác.

 

 

Như đã nêu trên, nhị vị Thánh tăng Thượng tọa Mahinda và Ni sư Singhamiha được kính trọng nhất, các Ngài đã cung cấp những giáo lý nguyên thủy của Đức Phật Tối cao cho Tổ tiên của chúng ta. Nhị vị Thánh tăng này đã hướng dẫn tổ tiên của chúng ta xuất gia và dự vào hàng ngũ Tăng đoàn. Các đệ tử tại gia cũng đã học Phật pháp và ứng dụng thực tiễn những lời vàng ngọc quý báu của Đức Phật trong cuộc sống thường nhật của họ. Sứ mệnh của nhị vị Thánh tăng Thượng tọa Mahinda và Ni sư Singhamiha đã thành lập Phật giáo Sri Lanka, và bảo đảm sự tồn tại của Chính pháp Phật đà cho nhiều thế hệ tương lai.

 

Thời gian trôi qua, những thay đổi nhiều, đã ảnh hưởng đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, giáo dục và tôn giáo ở mọi nơi trên thế giới. Kết quả là, Phật giáo nguyên thủy và tính thực tiễn của các Phật giáo đồ đã biến mất. Nhưng may mắn thay, những lời dạy quý giá nhất của Đức Phật do nhị vị Thánh tăng Thượng tọa Mahinda và Ni sư Singhamiha truyền lại cho chúng ta và đã được bảo vệ an toàn.

 

Mặc dù tính thực dụng trong Phật giáo của mọi người bắt đầu mờ nhạt, nhưng mọi người vẫn kiên trì tìm kiếm điều gì đó tốt hơn, và thực tế hơn cho bản thân. Hiện nay, công chúng không quá quan tâm đến việc tìm kiếm sự thật về cuộc sống so với thời đại của Đức Phật, nhưng vẫn có một số dân trí quan tâm đến việc điều tra mặt trái của cuộc sống. Tôi đã cố gắng rất nhiều để nghiên tầm tam tạng giáo điển, đối mặt với nhiều thách thức trên hành trình khám phá sự thật cuối cùng này. 

 

Tôi rất diễm phúc khi được đọc đầy đủ giáo pháp cao quý của Đức Như Lai – Sự kế thừa vinh quang của nhị vị Thánh tăng Thượng tọa Mahinda và Ni sư Singhamiha. Đạo Phật là một kho tàng trí tuệ kỳ diệu nhất trên thế giới. Những kim ngôn khẩu ngọc giáo huấn của Đức Phật ban truyền cho chúng ta thấy tài năng bao la, từ bi tâm, hoàn toàn tự giác, tâm hồn trong sáng, trí tuệ tỏa sáng như ánh Nhật Nguyệt và danh tính vô song của người xuất chúng từng xuất hiện trên hành tinh này. Như vầng Nhật Nguyệt tỏa chiếu cùng khắp không gian, thời gian, siêu việt số lượng, phản ảnh một thực tế; sự độc nhất của Như Lai (một trong nhiều danh hiệu đã được dùng để xưng hô với Đức Phật Tối Cao).

 

Năm 1999, tôi bắt đầu một buổi lễ Khánh  thành “Tu viện Phật giáo Mahamevnawa”, như một món quà của buổi lễ tưởng niệm cho sứ mệnh cao cả của nhị vị Thánh tăng Thượng tọa Mahinda và Ni sư Singhamiha. Khi chúng tôi bắt đầu thuyết giảng Giáo pháp từ bi, trí tuệ, hùng lực của Đức Phật, các nhóm dân trí từ khắp nơi trên quốc đảo Phật giáo này đã tụ tập xung quanh chúng tôi, với sự quan tâm ngày càng cao đối với sự thật cuối cùng này. Chúng tôi khuyến khích lòng trung hiếu chỉ tại sự thật đúng đắn mà Đức Phật đã kiên trì chỉ dẫn cho chúng ta. Nếu ai đó tôn trọng và thờ phụng Giáo pháp, phát triển quan điểm sống theo Giáo pháp và thực sự sống theo Giáo pháp, thì người Phật tử mong muốn chân lý, hiển hiện chân lý (Phật tính) của tự thân mỗi người là đủ.

 

Tôi chào mừng tất cả quý vị đến với tổ chức “Tu viện Phật giáo Mahamevnawa” với từ bi tâm. Trong dịch vụ Giáo pháp của chúng tôi, chúng tôi không có giới hạn nào về tuổi tác, chủng tộc, quốc tịch, vùng miền, giới tính, màu da, tôn giáo. Sự thật (Diệu đế, Chân lý) được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã khai thị rộng khắp cho tất cả mọi người. Nếu quý vị phát trí để hiểu sự thật đó, thì sự thật đó là dành cho quý vị, dành cho quý vị nhiều lợi ích và sự bảo vệ an toàn cho của quý vị. Do đó, chúng ta hãy tập hợp xung quanh chân lý đó, Chính pháp Phật đà. Chúng ta hãy học nó, hiểu nó và áp dụng thực tiễn trong cuộc sống thường nhật, phù hợp với nó.

 

Hiện tại, nhiệm vụ cao cả của chúng ta là chia sẻ món quà tuyệt vời của Giáo pháp Như Lai, suối nguồn từ bi tấm mát cho nhân gian, ánh sáng trí tuệ tỏa chiếu sưởi ấm khắp nhân gian, đại hùng đại lực giúp nhân thế dứt sự sợ hãi, giải phóng hết tất cả nỗi khổ niềm đau, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Cầu mong cho tất cả quý vị được gia trì bởi Đức Phật Tối cao, Giáo pháp siêu phàm, và Tăng đoàn Cao quý, những người bạn hữu cao quý trong Giáo pháp, và tất cả các Bản tôn!

 

Hòa thượng Kiribathgoda Gnanananda Thero

 

Thích Vân Phong biên dịch

 (Nguồn: Serene Colombo)

 

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2015(Xem: 8677)
Vạn Dặm Rong Chơi, Đường Rộng Mở _ Thích Từ Lực
01/10/2015(Xem: 7263)
Tu là gì ? “Tu là quá trình: 1/ quán chiếu nội tâm, 2/ làm triệt tiêu bản ngã và 3/ chuyển hóa nghiệp lực của mình” đây là ba điều kiện tiên quyết, cốt yếu và tinh túy nhất, trong phận sự người tu.
30/09/2015(Xem: 6903)
Phật giáo Khánh Hòa từng tạo những sự kiện lớn trong bao năm qua, việc tổ chức kỷ niệm 25 năm thành lập trường Trung cấp Phật học điểm thêm dấu son vào giáo sử tỉnh nhà, như từng lưu dấu suốt thời chấn hưng Phật giáo mà Khánh Hòa là một trong những địa phương từng được các bậc chân đức như cố Hòa Thượng T.Đổng Minh, cố HT T.Trí Nghiêm, cố HT T.Chí Tín, cố HT T.Trí Thủ, cố HT T.Thiện Minh, cố HT T.Thiện Siêu, cố HT T.Huyền Quang... góp công hình thành Phật sự.
28/09/2015(Xem: 10803)
Hôm chủ nhật cuối tuần ngày 20.09.2015, lớp ngành Thanh Gia Đình Phật Tử Tâm Minh tại Chùa Viên Giác, Hannover do mình hướng dẫn đã thảo luận về đề tài "Duyên Khởi và Dòng người tỵ nạn tại Âu Châu". Vì sao mình chọn đề tài nóng bỏng này cho các em thảo luận? Bởi các em là những thanh thiếu niên đã có bằng tú tài hoặc đang học đại học, cần có một cái nhìn mọi sự kiện xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, cũng như ngay chính bản thân mình bằng lăng kính giáo lý Phật Đà, để phát lòng từ bi rộng lớn, chứ không phải từ bi "có điều kiện"! Điều này sẽ giúp cho các em tăng thêm sự hiểu biết về giáo lý thực dụng của Đức Thế Tôn khi trao đổi với bạn bè khác trong trường. Là một Phật tử, ta nên tập quán chiếu mọi pháp thế gian qua lăng kính Phật Giáo, thì sẽ nhận ra được "Phật pháp không ngoài thế gian giác!"
27/09/2015(Xem: 6190)
Chùa Đá Vàng là kỳ quan tôn giáo của người Myanmar đồng thời là câu hỏi chưa có lời giải đáp của ngành khoa học địa lý. Chùa Đá Vàng hay Kyaiktiyo là điểm hành hương Phật giáo nổi tiếng thứ ba tại Myanmar, sau chùa Swedagon và đền Mahamuni, cách Yangon 200 km. Ngôi chùa nằm chơi vơi trên tảng đá khổng lồ ở vị trí chênh vênh cạnh vách núi cao 1.100 m. Những ai lần đầu nhìn đều cảm tưởng hòn đá sẽ lăn ngay xuống vực. Truyền thuyết Myanmar lý giải cho bố cục kỳ lạ này bằng câu chuyện của Đức Phật, tương truyền bảo tháp trên hòn đá chính là sợi tóc của ngài. Dù bạn có tin vào truyền thuyết hay không, trong khoa học địa lý đây là hiện tượng không thể lý giải.
27/09/2015(Xem: 10497)
Khi sống con người hay lãng phí thời gian làm những việc vô nghĩa, bởi lòng tham lam, ích kỷ của chính mình, tích chứa tiền bạc của cải nhưng không giúp gì cho ai? Có một con cáo đã phát hiện ra một chuồng gà, nó bèn tìm cách tiếp cận nhưng vì cáo nhà ta quá mập nên không thể chui lọt vào chuồng để ăn gà. Thế là nó đành phải nhịn đói suốt ba ngày liền mới có thể vào được chuồng gà. Sau khi vào được, nó đã ăn no nê để bù lại những ngày nhịn đói, giờ đây chiếc bụng của cáo đã phình to ra, nên không thể nào ra được nữa, thế là cáo đành phải nhịn đói trở lại ba ngày mới có thể ra khỏi chuồng gà.
25/09/2015(Xem: 8216)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng ở tuổi 80 của tôi thuộc thế hệ thế kỷ 20. Những người trẻ dưới 30 tuổi thuộc thế hệ của thế kỷ 21. Ngài thừa nhận rằng thế hệ của thế kỷ 20 đã tạo ra nhiều vấn đề, bao gồm cả thiệt hại cho môi trường. Một số ý tưởng của họ, chẳng hạn như quan điểm cho rằng vấn đề có thể được giải quyết bằng vũ lực hiện nay là hoàn toàn lỗi thời. Đức Đạt Lai Lạt Ma từ bến phà Millbank Pier đi đến The The O2 Arena, Greenwich, Luân Đôn, Vương quốc Anh. 19/09/2015. (Ảnh: Jeremy Russell)
24/09/2015(Xem: 8625)
Khi chung ta bước đi, với tâm địa Từ Bi rộng mở mang theo, làm tất cả những việc lành cho tất cả chúng sanh là chúng ta đã mở rộng biên giới hòa bình ngày một dang rộng. Những bước chân ấy đáng gọi là những bước chân Từ Bi. Có những điều khi tiếp cận với Phật học, dù với bất cứ trình độ nào, chưa chắc một sớm một chiều mình hiểu ra ngay hết được. Đôi khi phải đợi đến nhiều chục năm sau, thậm chí gần hết đời người rồi mình mới bừng tỉnh về một điều giác ngộ chưa trọn vẹn. Khi xưa mình nghe kể chuyện đức Phật Đản sanh, dưới bảy bước đi đều nở bảy đóa hoa sen. Thần thoại, truyền thuyết hay hư cấu cho lung linh một sự kiện về đấng giáo chủ của mình; hãy cứ để đó. Sau này ghé sang Làng Mai, chạm phải những công án Thiền của Ngài Nhất Hạnh, chúng ta bắt gặp câu “Từng bước nở hoa sen” thì mới vỡ òa nhiều khúc mắc ngày xưa còn kẹt lại trong một góc tối của tâm trí nào đó.
24/09/2015(Xem: 9295)
Sau tiếng ré lên của cái chuông bấm ở cửa, mình đã nghe tiếng chìa khoá lách cách tra vào ổ khoá của cánh cửa song sắt ở bên trong. Một chập sau, cánh cửa "Trại Cải Huấn Thanh Thiếu Niên Phạm Pháp" (Jugendarrestanstalt, viết tắc là JAA) tại Nienburg nặng chịt, rít lên tiếng sắt cọ sát trên thềm xi măng, mở ra. Bước chân vào, vài câu chào hỏi trao đổi với cô giám thị. Cửa chánh đóng lại. Cô giám thị hướng dẫn mình đi qua một cánh cửa song sắt. Lại đứng chờ. Sau khi nó lại khóa lại, thì có cảm giác "mình đi lại tự do trong Trại Cải Huấn" được rồi! Tiến về phòng điều hành. Từ bên ngoài đã thấy ông "xếp" trại, ba nam giám thị, cô giám thị khi nãy; hai cô tác viên xã hội (Sozialarbeiterin) và thêm bốn thiếu nữ lạ mặt. Ông "xếp" trại giới thiệu bốn thiếu nữ lạ ấy cũng là tác viên xã hội ở các tù khác đến tìm hiểu kinh nghiệm hướng dẫn của "thầy JIP" - tên là Diệp, nếu đọc không bỏ dấu và theo âm Đức thì là "Dieb"; mà "Dieb" có nghĩa là "kẻ cắp"! Còn nếu phát âm tương đối đúng thì v
24/09/2015(Xem: 9357)
Phải nói thật rằng câu hỏi này lởn vởn trong đầu tôi nhiều lần, trong nhiều năm nay. Nghe có vẻ ngớ ngẩn. Mà cũng có thể tôi là người ngớ ngẩn. Ai đời lại đi đặt câu hỏi mà đứa trẻ học tiểu học cũng có câu trả lời thế này. Ấy thế mà khi ngồi tĩnh tâm tại ngôi chùa lớn nhất thế giới Borobudur, Indonesia câu hỏi này lại hiện về. Hiện về 1 cách rất rõ nét. Đây là lần thứ 3 câu hỏi này làm tôi trăn trở nhiều nhất.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]