Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người tình định nghiệp

03/10/202010:51(Xem: 6041)
Người tình định nghiệp

Người tình định nghiệp

 lotus_50

Hôm nay trời nhẹ lên cao.

Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.[1]

Mỹ Ngư cất tiếng hát nho nhỏ. Nàng buồn như tâm trạng câu thơ, chỉ man mác, vu vơ không rõ nguyên do. Nếu quay ngược được thời gian trở lại bốn chục năm về trước khi nàng là thiếu nữ thì còn hiểu được, nhưng đằng này... Lòng buồn suy nghĩ mông lung, bỗng nàng nhớ lại lời Phật dạy; phàm việc gì cũng phải do “duyên khởi“. Cái duyên của nàng bắt đầu là một giấc mơ, một giấc mơ kỳ lạ!

Nàng ít khi mơ. Đặt mình xuống sau vài câu niệm Phật, hồn vía nàng đã rơi vào cõi hư vô. Với con người như thế, tâm địa như thế, làm sao hồn ma bóng quế nào dám bén mảng đến tìm nàng, đến báo cho nàng biết các kiếp trước đã quá vãng đời nàng. Làm sao nàng biết để giải mã các ẩn tình ngang trái xảy ra dồn dập trong kiếp lai sinh đầy bí ẩn này.

Một hôm cô cháu gái đã kể vanh vách các chi tiết cùng “Người thật việc thật“ của một bối cảnh xảy ra từ thời Mi nớp xăng cà cộ [2] vài ba kiếp trước. Chỉ một mình Mỹ Ngư chấn động tâm can: vì chuyện như chuyện của mình, vì cùng tâm sự.

Cô cháu kể rằng trong giấc mơ thấy một người đàn ông tự xưng là Hải Mã hiện ra, tay xách va-li đứng trên ban công một ngôi nhà sang trọng. Chàng chờ một người đã lâu lắm rồi, tìm hoài tìm mãi không gặp. Trước khi bỏ đi, chàng chỉ nói được mỗi một câu: “Vợ chồng tìm nhau đã mấy kiếp rồi mà sao bây giờ vẫn chưa đến“. Cô cháu nghe xong rùng mình tỉnh giấc.

Hải Mã là người tình cuối đời của nàng Mỹ Ngư, họ gặp nhau rất trễ trong kiếp này. Chẳng những trễ mà còn ngang trái, nàng vẫn ứa nước mắt mỗi khi nhắc lại, mỗi khi chiều xuống, mỗi khi mưa phùn bay lất phất... Nhờ thời buổi A Còng, muốn nói chuyện gì thì cứ nhắn qua Viber, nói đến quên cả giờ nấu cơm cũng chẳng sao. Cuộc tình của họ đã bị giấc mơ oan nghiệt của cô cháu lật tẩy. Người chồng hiện tại của nàng kiếp này chính là người tình kiếp trước nàng hằng mơ tưởng muốn bỏ chồng đi theo, còn người tình kiếp này lại là người chồng cũ bị vợ phụ bạc mang mối hận tình đi tìm nàng khắp thế gian.

Nàng bị dày vò trong nỗi tuyệt vọng của người đàn bà - nhân vật của bài hát “Hận tình trong mưa“ - lời nhạc diễn tả một người đàn ông si tình, ngày nào cũng ra công viên ngồi trên ghế đá chờ đợi người yêu. Nàng hẹn mà không đến, để chàng chờ từng ngày đến mỏi mòn, hơn cả hai chục năm rồi chàng bị mù luôn đôi mắt. Vậy mà hơn hai chục năm mỗi ngày chàng đều hát: “Người yêu dấu ơi! Về đây với tôi[3].

Mỹ Ngư sống trong ảo giác như thế! Bạn bè nàng biết chuyện, người thương cảm, kẻ cười chê gọi nàng là “Madame de hoang tưởng“. Họ cho nàng ngụy biện, định dùng quá khứ tiền kiếp để che đậy cho hành vi “tà dâm“ bất chính của mình. Nhưng trong tự đáy thâm tâm nàng vẫn tin câu chuyện có thật, chẳng lẽ A Lại Da Thức của nàng đã đưa sai tin tức? Mỹ Ngư rất tin sâu nhân quả ít nhất ba đời, mới giải thích được các sự việc xảy ra trong hiện tại và cho cả tương lai. Nàng đâu dễ đầu hàng nghịch cảnh, khi tự tin vào Pháp Phật nhiệm màu sẽ giải được tất cả các khổ đau oan trái, nếu ta chịu khó thực hành.

Một hôm nàng tìm đến ngôi chùa trong vùng nghe thuyết pháp, có vị Hòa Thượng nổi tiếng về vấn đề tâm linh, đang làm chuyến vân du hoằng pháp độ sinh. Đề tài chính vẫn là niệm Phật thế nào mới được vãng sanh trong giờ phút lâm chung. Theo Người, chỉ có hai trường hợp: một là niệm Phật “nhất tâm bất loạn“, hai là chỉ cần nhớ tới một chữ Phật thôi cũng được ít nhất “đới nghiệp vãng sanh“. Vì lúc ấy tấm thân tứ đại đang từ từ tan rã, đau đớn vô cùng. Bao nhiêu cảnh sắc hiện ra tại sao ta không nhớ mà chỉ nhớ đến Phật mà thôi. Chỉ một điều này cũng đủ cho Phật A Di Đà dang tay cứu vớt như 48 lời nguyện của Ngài trong Kinh Vô Lượng Thọ.

Mỹ Ngư nghe được bài Pháp rất mừng rỡ, nàng biết mình phải làm gì để tháo gỡ những giây oan nghiệt quấn chặt đời nàng từ bao kiếp trước. Để trả lời câu hỏi: “Có Ma hay không?“ Vị Hòa Thượng khẳng định là có, nhưng chỉ là một loại Ngũ Ấm Ma, mà Sắc Ma đã tan tành theo mây khói, cát bụi đã trở về với cát bụi, chỉ còn các loại Ma: Thọ, Tưởng, Hành, Thức hiện lên quấy phá mà thôi.

Ôi! Sao đơn giản thế! Chàng Hải Mã - người tình định mệnh của nàng kiếp này là một Sắc Ma của người chồng tiền kiếp. Chàng lúc nào cũng sát cánh cùng bốn người bạn tâm giao: Thọ Ma, Tưởng Ma, Hành Ma và Thức Ma, lập thành một nhóm “Chúng mình năm đứa“ đến đòi nợ nàng. Chàng là chủ nợ kia mà, món nợ tình này nặng lắm, không dễ cho qua. Đã có lần chàng chỉ vào mặt nàng nói giọng đanh thép:

-         Luật nhân quả rất công bằng, phải trái phân minh. Bà và tên chồng của bà phải trả giá cho những gì mình đã gây ra.

Chưa kịp để nàng rùng mình sợ hãi cho những diễn biến đột nhiên xảy ra trong buổi gặp gỡ, đáng lẽ ra phải trìu mến yêu thương. Chàng bồi thêm câu nữa với nét mặt đầy vẻ bi ai:

-         Còn nỗi thống khổ của người chồng bị vợ phụ bạc như thế nào, diễn tả làm sao cho thấu!

Câu chuyện trở nên gay cấn khi chàng Thọ Ma trong người chàng Hải Mã nhắc lại chuyện xưa, làm tim chàng đau nhói. Thế rồi cả năm chàng Ma trong băng đảng “Ngũ Ấm Ma“ cùng hùa vào tấn công một cô nàng chân yếu tay mềm, nhưng có một lòng tin Tam Bảo thật kiên cố, vững như thành đồng. Trong tình huống ấy nàng chỉ biết ngồi yên lặng niệm Phật, chờ bọn ma quân trong người chàng Hải Mã chửi rủa hả hê, rồi vui vẻ rút lui. Phần nàng Mỹ Ngư tự hứa với lòng, từ đây phải thành tâm sám hối lạy Phật mỗi ngày để ăn năn hối cải cho tội lỗi ngày xưa. Nàng phải đuổi ngay 51 con “Nặc Nô“ đầy tớ trong nhà, cho nghỉ việc dài hạn không lương để khỏi làm tổn thương chàng Hải Mã của nàng thêm một lần nữa.

Mỹ Ngư đang tìm kế sách đối phó với người tình định mệnh, phải xử thế làm sao cho chàng tự động rút lui với lời ly biệt: “Thôi, thôi… tôi cho bà xù nợ đấy!“

Nàng vấn kế tứ phương, từ các bậc Cao Tăng đến các bạn Đạo miệt vườn. Mỗi người mỗi ý, khiến nàng đôi lúc muốn nổ tung cả đầu. Cuối cùng vẫn tìm ra được ba giải pháp, tùy nàng lựa chọn làm sao cho thích hợp với căn cơ.

 

. Kế sách thứ nhất, nàng phải dứt bỏ cả hai chàng rồi vào Chùa cạo đầu đi tu tương tự  như chuyện tình Lan và Điệp. Cạo đầu ư? Đám tóc xanh kia đâu có tội tình gì mà bắt ép nó chui vào đống rác. Mà tóc chui vào đống rác thì cái tâm kia có tịnh hơn không? Tóc cạo xong thì tóc mọc lại. Nghe nói còn mọc mạnh hơn lúc xưa. Có thể tóc sẽ hết đen mượt mà ướm màu phiền não. Còn khổ hơn. Nàng chưa chịu cạo cái tâm tình ái lăng nhăng, cạo đầu chỉ là hình thức, nhưng cái tâm u uẩn cũng giết lần giết mòn nàng thôi. Tâm u uẩn của đầu có tóc hay không tóc cũng làm con người chết mòn. Vả lại cửa Phật là nơi thanh tịnh dành cho người giải thoát, chứ không phải bệnh viện tâm thần hay viện dưỡng lão đón nhận những người thất tình như Mỹ Ngư. Tuy nhiên tất cả đều vô thường, đến hạng người “Nhất xiển đề“ không có niềm tin vào Phật Pháp cũng được thành Phật, đã nói là vô thường mà! Ngoài ra trông gương của các nàng Liên Hoa Sắc và Ma Đăng Già, trước khi họ đến với Phật Pháp quá khứ của họ như thế nào? Thế mà chỉ cần một thời gian ngắn học Pháp Phật họ đã chứng quả vị A La Hán thuộc hàng vô sanh. Đấy là duyên may của họ gặp Phật ra đời, chứ thời nàng Mỹ Ngư chưa gọi là Mạt Pháp là may lắm rồi! Ở đâu còn có Chánh Pháp thì Mạt Pháp không thể xuất hiện, do đó Mỹ Ngư có thể thõng tay đi thẳng vào Chùa khi tâm nàng đã rũ sạch lòng trần và cửa Phật từ bi lúc nào cũng rộng mở đón nàng.

 

. Kế sách thứ hai, coi trọng cả hai người đàn ông trong đời: với người chồng kiếp này phải làm tốt bổn phận người vợ, người mẹ trong gia đình và cảm hóa chàng sống cho đúng đường, không được đi tắt về ngang. Với người chồng tiền kiếp, xem như bạn tri kỷ, hướng dẫn chàng học Phật để trở thành Pháp lữ của nhau. Giải pháp này đi đúng bài bản trong sách vở không chê trách vào đâu được, nhưng hãy xem nàng Mỹ Ngư đàm đạo với chàng Hải Mã về vấn đề Cận tử nghiệp.

Mỹ Ngư nhớ đến câu chuyện gây xôn xao một thời của đôi vợ chồng già tỉnh Hà Giang. Họ sống với nhau rất đầm ấm không con cái hơn bốn mươi lăm năm ròng rã. Đến lúc tuổi già với căn bệnh nan y ập xuống, trong cơn đau đớn mê sảng bà buột miệng gọi tên người tình cũ. Thế mà Hải Mã của nàng cứ khen lấy khen để hành động của cụ ông, dám thuê xe về Nam Định tìm người tình cũ cho vợ, tìm không được cứ ray rứt mãi về tội không thỏa đáng được ước nguyện sau cùng của người vợ yêu.

Mỹ Ngư nghe xong câu chuyện, nhẹ nhàng phản biện lại những gì mình hiểu được: Theo nàng, lúc tấm thân tứ đại, đất, nước, gió, lửa sắp tan rã, đau đớn vô cùng. Nếu là người trí họ sẽ quán không cái sáu căn, sáu thức với sáu trần để trở về tư duy bát nhã, tức là giải thoát ra đi nhẹ nhàng. Còn người thường sẽ nhớ đến những giây phút hạnh phúc trong cuộc đời được giữ trong tàng thức. Vậy chuyện cụ bà trước khi chết gọi tên ai đó cũng chỉ nhớ đến những dấu ấn đã hằn sâu trong cuộc đời, chứ không nhất thiết phải “Giữ mãi trong tim bóng một người” như lời thơ của TTKH.

Nhưng Hải Mã của nàng nghĩ rất đời thường, vội vàng “phong thánh” cho cử chỉ dễ thương của ông chồng kia. Nghĩ đi, nghĩ lại, rất rộng lượng vị tha nhưng tiềm ẩn nào đó chính để tự thỏa mãn cái ngã của mình, ngay trên cái chết của người vợ hiền.

Một lần khác, bên tách cà phê chàng Hải Mã đem câu chuyện hư cấu của một nhà văn, chàng có phần ngưỡng mộ cho óc tưởng tượng phong phú của tay này. Dám dàn dựng một “Phút cuối“ thật lâm ly bi đát cho một cuộc tình, nàng bị ung thư phổi vào giai đoạn cuối, ước mơ được thăng hoa với người yêu lần cuối. Mỹ Ngư nghe xong muốn đột quỵ cho những đột phá trong văn học, với nàng chỉ đơn giản là ý tưởng điên rồ của những người bị uẩn khúc tình dục. Phút cuối ấy, với căn bệnh nan y như thế, nàng thở còn không ra nữa là suy nghĩ đến điều gì khác với tâm trí rối loạn. Cái nàng cần lúc ấy là Morphin thuốc giảm đau.

Nếu cứ đàm đạo với nhau kiểu này mãi đến bao giờ mới thành Pháp lữ của nhau. Họ phải có đề tài để nói chuyện chứ chẳng lẽ yêu nhau chỉ nhìn về một hướng của cái TiVi, hay mỗi người ngồi mỗi góc bấm máy điện thoại à ơi với thế giới ảo xa vời.

 

. Kế sách thứ ba, cần nhiều thời gian để chuyển hóa tâm thức. Các bạn Đạo của nàng biết chuyện cũng khuyên nàng nên bỏ chạy mối tình của chàng Hải Mã, đã thọ Bồ Tát Giới rồi mà còn bày chuyện yêu đương, không sợ phạm giới hỏng hết bao nhiêu công lao tu học bấy lâu. Thoạt nghe rất chí lý, nhưng chỉ là giải pháp tạm thời ấn niềm đau nỗi nhớ xuống tận đáy tim. Nàng nhớ lời của một vị Thiền sư nổi tiếng, phải nhận diện khổ đau, ôm ấp vuốt ve rồi chuyển hóa nó, đừng nên tưới tẩm thêm. Đã có đường đi rồi, ta không còn lo sợ. Nghe xong tưởng như là đã ngộ, nhưng không biết chuyển hóa bằng cách nào đây?

Thì cũng phải có phương pháp chứ, trước tiên nàng nên soi vào tận trong tâm xem mình muốn gì? Có phải nàng còn tham tình, tham ái lắm không? Nếu không tại sao lúc nào cũng khao khát gửi tín hiệu Yêu. Nàng sợ sự đơn độc nên kiếm một bờ vai dự phòng, vì con người khi sinh ra trong đơn độc và khi chết cũng đơn độc, vậy khúc giữa nàng muốn trám nỗi buồn của mình bằng những niềm vui đi mượn. Khi đã đi mượn niềm vui của ai đó là đã bị lệ thuộc vào người ta, cho hạnh phúc mới được hạnh phúc, bắt khổ đau thì cứ khổ đau dài dài. Vậy “Tự do tuyệt đối” nó nằm ở đâu? Không đâu xa, chính là trở về với trạng thái cô độc tuyệt vời!

Nàng phải xử trí ra sao cho trọn tình trọn nghĩa với hai người đàn ông yêu nàng tha thiết, cứ tạm cho họ yêu nàng say đắm đi. Cả hai muốn cản bước chân nàng, không cho nàng đi theo Phật A Di Đà. Họ trải thảm yêu rồi rắc đầy kẹo đắng bọc đường thật ngọt ngào cho nàng hoa mắt, chẳng còn tâm trí đâu nhớ tới Đức từ phụ của nàng. Thảo nào đến bây giờ nàng mới hiểu, đi theo Sư Phụ đã hơn hai chục năm mà nàng vẫn chưa thuộc nổi thần chú Thủ Lăng Nghiêm. Chỉ nhớ được vài chữ “Bà già bà đế bà da…” là hết cỡ! Rồi còn trích câu vè của dân gian ra ngụy biện cho cái đầu mịt đặc chứa đầy một chữ Yêu: “Đi lính sợ ải, làm Sải sợ Lăng Nghiêm”. Khó thế ai mà thuộc nổi! Nhưng nếu khó đến nỗi không làm được thì sao mấy bà bạn đạo ít chữ, lúc đầu đọc kinh phải ghép vần, vậy mà sau mấy tháng là có thể nhắm mắt tụng ro ro.

Nhắc đến Sư Phụ, nàng chợt nhớ đến hình ảnh của Người khoảng hai mươi năm về trước, đã đem Thuyền Bát Nhã ra vớt nàng ngoi ngóp trầm luân trong biển Ái. Rồi còn cho nàng Quy Y Tam Bảo và thọ Ngũ Giới với pháp danh Giới Hương, nén hương thứ nhất trong ba nén hương Giới Định Huệ cao cả tuyệt vời. Trong khi nàng Kiều chỉ được Hoạn Thư tự biên tự diễn bắt mặc áo nâu sòng, trao cho pháp danh Trạc Tuyền là biến thành Ni Cô, ngồi chép Kinh trong Quán Âm Các.

Vậy trong hai mươi năm tu tập Giới Hương của Sư Phụ đã hóa giải các nội kết của mình tới đâu rồi? Nói là hóa giải là hơi quá cao, phải dùng chữ cho chính xác hơn là chuyển hóa từ từ các nỗi khổ niềm đau. Cũng được phần nào, nếu không nàng đã chẳng còn sống sót tới ngày hôm nay. Lúc mới bước chân vào cổng Tam Quan, nàng thấy “Sông là Sông, Núi là Núi” như lời vị chân tu nào đó cảm nghiệm, với nàng phải đổi lại là “Chồng là Chồng, Con là Con”. Nhưng sau thời gian dài tu tập nàng thấy “Chồng không phải là Chồng, Con không phải là Con”, muốn vất bỏ tất cả để theo đạo giải thoát tránh mọi khổ đau của một kiếp người. Do đó trong nhà đã xảy ra nhiều tình huống trái ngang không lối thoát. Đến một lúc nào đó, nàng ngộ ra rằng “Chồng vẫn là Chồng, Con vẫn là Con”, nên sẵn sàng trở về mái nhà xưa, biến cái đời rất thường với cái nhìn chánh niệm thành một cõi Niết Bàn tại thế.

Mái ấm gia đình của nàng chưa được an vui bao lâu thì người ấy xuất hiện, nhưng bây giờ nàng đã ngộ ra ngay câu chuyện tình tay ba canh cánh bên lòng, cần được nội soi chiếu đèn pha vào rửa sạch tim đen, rồi bôi thuốc dán hiệu “Tự do tuyệt đối” để đạt được trạng thái “Cô độc tuyệt vời”.

Giờ đây nàng đã hết buồn. Trời có nhẹ hay nắng có lên cao thì cũng mặc trời, mặc nắng. Giới Hương giờ đã biết “vì sao tôi buồn“. Hơn nữa nàng còn biết cách hóa giải nỗi buồn ấy. Nàng sẽ không xua nỗi buồn đi mà sống với nó, mà ôm ấp nó, mà cùng hướng thượng với nó. Nó và nàng sẽ tay trong tay thong dong cùng bước đến bờ bên kia. Đáo bỉ ngạn!

Trời buồn trời cứ lên cao.

Ta đang quán chiếu: cớ sao ta buồn?   

 

 Hoa Lan - Thiện Giới.

2017.

 

 



[1]  Bài thơ “Chiều“ của Xuân Diệu.

[2] Thời những năm 1900 - tiếng Pháp bồi - ý diễn tả sự cổ lỗ.

[3] Bài hát “Hận tình trong mưa“ của Koibito Yo - lời Việt của Phạm Duy.




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/05/2016(Xem: 32067)
Bắt đầu từ ngày 06 tháng 4 năm 2016, cá biển tự nhiên và cá nuôi lồng bè của ngư dân ven biển chết hàng loạt, bắt nguồn từ khu kinh tế Vũng Áng (thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh), lan xuống các tỉnh lân cận (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam-Đà Nẵng…) suốt dọc trên 200 cây số bờ biển. Ngay cả rạn san hô, “nhà ở” của các sinh vật dưới biển, cách bờ biển từ 1-6 hải lý, chạy dài từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh Quảng Bình, cũng đã bị phá hủy trong các đợt cá chết vừa qua; san hô chết, nhiều sinh vật biển chết theo (theo báo cáo ngày 06.5.2016 của chính quyền địa phương thôn Nhân Nam, xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình).
18/05/2016(Xem: 13266)
Lễ Phật đản là một dịp lễ quan trọng với người dân theo đạo Phật, trở thành một nét văn hóa ở nhiều quốc gia, từ Thái Lan, Hàn Quốc, tới Australia.
18/05/2016(Xem: 7176)
Bốn Đại nguyện của giáo lý đại thừa được triển khai trên sự thực hành giáo lý Tứ Diệu Đế. Danh xưng thường đọc tụng là Tứ Hoằng Thệ Nguyện; “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
17/05/2016(Xem: 12463)
Ngày Hoan Hỷ, Tập Văn Kỷ Niệm Khóa Huấn Luyện Trụ Trì năm Đinh Dậu 1957_HT Thích Thiện Hòa
06/05/2016(Xem: 10263)
Khi mà bạn có Mẹ hiền Chăm lo cho bạn ngày đêm an phần Những gì bạn muốn bạn cần Mẹ hoan hỉ giúp, xả thân chẳng phiền.
05/05/2016(Xem: 9436)
Hội Thảo Giáo Dục Phật Giáo tại Hoa Kỳ, 3/3 (4/2016)
05/05/2016(Xem: 31411)
Nghi thức Kệ Chuông Đại Hồng Chung tại Tu Viện Quảng Đức, Văn chung thinh phiền não khinh, Trí huệ trưởng, Bồ đề sanh, Ly địa ngục, xuất hỏa khanh, Nguyện thành Phật, độ chúng sanh (0). Nghe chuông, phiền não nhẹ lâng lâng Bồ đề thêm lớn, Tuệ sáng ngần Xa rời Địa-ngục, qua hầm lửa Nguyện thành như Phật, độ chúng sanh. (0).
28/04/2016(Xem: 20700)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
27/04/2016(Xem: 10631)
Trọng tâm của bài viết nầy nhằm tìm nguyên nhân tại sao người Phật tử bị cải đạo và đề nghị phương pháp ngăn ngừa, chứ không phải là so sánh giữa hai tôn giáo. Tuy vậy, để có thể biết được nguyên nhân, nên một số tín điều và cách sống đạo, của tôn giáo, không thể không đề cập đến. Mong độc giả xem đó như là vài dẫn khởi cho việc truy tìm nguyên nhân Phật tử bị cải đạo và đề nghị giải pháp. Dẫu theo lối tiếp cận nào, chúng tôi vẫn dựa trên những chứng tích lịch sử để luận bàn, chứ không bao giờ đề cập những điều vô căn cứ. Một tôn giáo (hay một học thuyết) muốn đứng vững với thời và không gian thì tôn giáo ấy phải có ba tiêu chí cốt yếu: Nhân bản, Khoa học và Thực dụng.
23/04/2016(Xem: 6683)
Hàng ngày tôi có thói quen ngồi tọa thiền và sau đó đi kinh hành. Địa điểm đi kinh hành tuyệt vời và may mắn nhất tôi có được là công viên Nghĩa Đô gần nhà. Ngày thực hành 2 lần, sáng sớm và buổi tối. Thật tuyệt vời vô cùng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]