Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tu Thiền Giúp cải thiện Thể chất Tinh thần?

02/10/202019:20(Xem: 5128)
Tu Thiền Giúp cải thiện Thể chất Tinh thần?

Tu Thiền Giúp cải thiện Thể chất Tinh thần?
các Chuyên gia Đưa ra nhiều Đề xuất để Tăng cường Công hiệu

(禪修為何有助運動員提升表現專家提出多種建議加強功效)

 Nhà tâm lý học người Mỹ gốc Hungary, Tiến sĩ Mihaly Csikszentmihalyi

Hình: Nhà tâm lý học người Mỹ gốc Hungary, Tiến sĩ Mihaly Csikszentmihalyi đi tiên phong trong lý thuyết “Dòng chảy” vào những thập niên 1970.  (Ảnh: Fan page Mihaly Csikszentmihalyi)

 

Nhiều người hâm mộ văn hóa thể thao biết rằng, vận động viên bi da chuyên nghiệp nổi tiếng, sinh quán tại Hồng kong và khi 12 tuổi cùng gia đình đến nhập cư tại Vancouver, Canada năm 1990, cư sĩ Phật tử Phó Gia Tuấn (傅家俊) (ba lần đoạt giải vô địch thế giới và 4 lần đạt vị trí Á quân, từng đứng hàng 10 trên thế giới) là một cư sĩ Phật tử ăn trường chay và thường công phu tu tập thiền định Phật giáo. Do đó, nhiều người đã nói về tầm quan trọng của việc giữ cho người chơi thể thao chuyên nghiệp ổn định về mặt cảm xúc trong suốt trò chơi. Việc học Phật pháp và công phu tập thiền định có giúp cho thành tích của cầu thủ Phật tử Phó Gia Tuấn không? Trên thực tế, các môn thể thao ưu tú ngày nay đang trở nên chuyên nghiệp hơn, và tâm lý học thể thao đã trở thành một phần không thể thiếu của các môn thể thể chuyên nghiệp. Theo nghiên cứu chứng thực của khoa học, việc công phu tu tập thiền định Phật giáo rất hữu ích đối với thành tích của vận động viên.

 

Nói về sự trợ giúp của công phu tu tập thiền định Phật giáo đối với thành tích thể thao, suy luận tự nhiên nhất là thiền định Phật giáo giữ cho các vận động viên bình tĩnh và ổn định về mặt cảm xúc, giải tỏa sự căng thẳng stress, và do đó đạt được mức lý tưởng. Tuy nhiên, điều này thực sự liên quan đến một lý thuyết sâu sắc hơn về tâm lý thể thao: Tiến sĩ Mihaly Csikszentmihalyi người Mỹ gốc Hungary, giáo sư nổi tiếng ngành Tâm lý và Quản trị, Đại học Claremont Graduate thuộc bang California, Hoa Kỳ đã đề xuất vào những thập niên 1970 rằng, nếu tinh thần của một người được đầu tư hoàn toàn vào một hoạt động nhất định, thì cái gọi là “Dòng chảy, 心流“ sẽ tuôn trào. (Dòng chảy hay dòng chảy tâm thức), hay nói cách khác là “nhập tâm” (in the zone, trạng thái của ý thức, nơi mà các kỹ năng thực tế phù hợp với yêu cầu về hiệu năng được biểu hiện một cách hoàn hảo. Nằm trong khu vực này có nghĩa là tập trung và chú ý ngày càng tăng, cho phép đạt hiệu suất cao hơn). Anh ấy sẽ mải mê và chìm đắm trong trạng thái quên mình, thậm chí không cảm nhận được sự tồn tại của thời gian, khi hoàn thành công việc, anh ấy sẽ tràn đầy năng lượng và cảm thấy rất hài lòng.

 

Người hâm mộ văn hóa thể thao sẽ biết rằng, cá nhân các vận động viên đôi khi có những kỹ năng phi thường hằng ngày vượt quá mức của họ, trong một sự kiện nhất định, hoặc một giai đoạn nhất định của nó. Bình luận thể thao nói chung, sẽ nói rằng lúc đó anh ấy đang ở trạng thái đỉnh cao và thi đấu dũng cảm, v. v . . . nhưng dưới góc độ tâm lý thể thao thì vận động viên này lúc đó đang trong dòng chảy xuất thần. Ví dụ, một tay golf chuyên nghiệp người Mỹ và là cựu thành viên PGA Tour, Mark Calcavecchia, người đã 13 lần vô địch Tour Championship (PGA), chỉ ra rằng: “Khi tôi đạt đến lĩnh vực của cảnh giới xuất thần quên mình, tôi không nghĩ về cách xoay người, hướng đông tây, khoảng cách hay bất cứ thứ gì. Chỉ cần cầm gậy và đánh bóng”.

 

Kết quả rằng, các nhà tâm lý học bắt đầu nghiên cứu cách tăng cơ hội cho các vận động viên tạo ra dòng chảy xuất thần. Vào cuối thế kỷ 20 những thập niên 1990. một số người bắt đầu liên kết nghiên cứu này với việc công phu tu tập thiền định Phật giáo, và thực hiện các thí nghiệm liên quan. Một số thí nghiệm vào đầu thế kỷ 21 những thập niên 2009, 2015 và 2016 đã phát hiện ra rằng, việc công phu tu tập thiền định Phật giáo giúp vận động viên kiểm soát những suy nghĩ tiêu cực và căng thẳng, tập trung vào các kỹ năng họ cần sử dụng vào lúc này, và do đó có hiệu suất tốt hơn. Đồng thời, các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng các vận động viên rất hoàn hảo trong việc công phu tu tập thiền định Phật giáo, có nhiều khả năng trải qua nhiều trạng thái khác nhau của dòng chảy, bao gồm sự cân bằng giữa thử thách và kỹ thuật, mục tiêu rõ ràng, sự tập trung, hành động kết hợp và nhận thức với tâm vô ngã vị tha.

 

Tiến sĩ Kristin Keim, Nhà tâm lý học thể thao lâm sàng tóm tắt những lợi ích của việc công phu tu tập thiền định Phật giáo, đối với vận động viên ở bốn khía cạnh sau đây từ quan điểm điều chỉnh tâm lý và thể chất:

 

Giảm áp – áp lực chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến thành tích của các vận động viên, vì vậy việc giải nén là vô cùng quan trọng. Một nghiên cứu được công bố trên “Tạp chí Tâm lý học Sức khỏe” (健康心理學學刊) đã chỉ ra rằng, việc công phu tu tập thiền định Phật giáo có thể làm giảm mức độ “Nội tiết tố” (hormone) căng thẳng cortisol, do đó làm giảng căng thẳng. Nếu các bạn luyện tập thường xuyên, cơ thể của vận động viên có thể được thư giãn trong môi trường áp lực cao, đồng thời xây dựng sự tự tin và suy nghĩ tích cực hơn.

 

Cải thiện giấc ngủ và rút ngắn thời gian phục hồi – “Tập chí Giấc ngủ học” (睡眠學刊) cho biết, nếu vận động viên không ngủ đủ giấc, họ sẽ gặp các vấn đề sau: tăng trọng lượng, thay đổi tâm trạng, tăng mức độ lo lắng hoặc trầm cảm và không thể duy trì sự tập trung. Việc công phu tu tập thiền định Phật giáo có thể cải thiện giấc ngủ, điều này có thể cải thiện đáng kể hiệu suất của họ. Mặt khác, những vận động viên công phu tu tập thiền định Phật giáo thường xuyên có thể hồi phục sau luyện tập, thi đấu, thậm chí là chấn thương. Một nghiên cứu khác cho thấy công phu tu tập thiền định Phật giáo có thể giúp cải thiện hệ thống miễn dịch và giảm khả năng bệnh tật của các vận động viên.

 

Tăng cường sức bền thông qua công phu tu tập thiền định Phật giáo, vận động viên có thể hình dung tình huống thực hành mục tiêu của họ. Kết hợp với các luyện tập hô hấp, nó có thể giúp tăng cường độ tập luyện của cơ thể và duy trì lâu hơn.

 

Nâng cao nhận thức về thể chất, tự ngã, bản thân, và công phu tu tập thiền định Phật giáo có thể giúp các vận động viên hiểu được “Điểm mù” (盲點) của họ, cải thiện, xây dựng sự tự tin và cải thiện hiệu suất. Đồng thời, trong luyện tập thể thao, người công phu tu tập thiền định Phật giáo để tăng cường nhận thức của từng cơ bắp trên cơ thể, giúp động viên hiểu được chấn thương của mình, và ngăn ngừa chấn thương trong tương lai, hơn nữa, công phu tu tập thiền định Phật giáo còn có thể cải thiện sự phối hợp giữa tâm trí và cơ thể.

 

Tuy nhiên, các chuyên gia tâm lý học nhắc nhở các vận động viên rằng, công phu tu tập thiền định Phật giáo không thể một sớm một chiều, phải kiên trì mới có hiệu quả. Các nhà tâm lý học tại Đại học Boston, Hoa Kỳ đã sắp xếp buổi tu tập thiền Phật giáo cho một nhóm cầu thủ bóng đá nữ trong sáu tuần, trong đó họ liên tục theo dõi cảm xúc của những người tham gia. Những người tham gia cảm thấy rằng, khóa công phu tu tập thiền định Phật giáo bắt đầu có hiệu quả cho đến khoảng một nửa thời gian, tức là ba tuần 21 ngày. Do đó, các nhà tâm lý học khuyên rằng, các vận động viên nên kiên nhẫn thực hiện tu tập thiền Phật giáo ít nhất tám đến mười hai tuần công phu.

 

Các nhà tâm lý học cũng đã đưa ra một số gợi ý liên quan, bao gồm: Tốt nhất các bạn nên công phu tu tập thiền định Phật giáo mang tính tập thể cùng một nhóm người; tu tập thiền định hàng ngày (hoặc ít nhất ba lần một tuần), vào một khoảng thời gian cố định và ghi lại cảm xúc của bản thân sau mỗi lần công phu tu tập thiền định Phật giáo cho tương lai. Để tham khảo, hãy đến sớm từ 5 đến 10 phút để công phu tu tập thiền định trong khi luyện tập và thi đấu, đồng thời sử dụng các công cụ trực tuyến, và ứng dụng di động để giúp các bạn luyện tập.

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: 佛門網)

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2021(Xem: 5412)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10420)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9231)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6527)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8910)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5095)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5289)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5720)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4588)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5174)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]