Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo và Tự do Tư tưởng

01/10/202018:41(Xem: 5104)
Phật giáo và Tự do Tư tưởng

Phật giáo và Tự do Tư tưởng

(Buddhist Thoughts on Freedom)

Tác giả Sensei Alex Kakuyo 

Mấy năm qua, tôi đã quyết định từ bỏ hầu hết tài sản thế gian của mình, và vui sống trong một trang trại. Có nhiều lý do giải thích tại sao tôi đưa ra quyết định này, từ trần tục đến tâm linh. Nhưng cải giải thích đơn giản nhất là nói rằng tôi muốn “Tự do”. Tôi cảm thấy bị vướng mắc trong một công việc của công ty không được như ý. Tôi xúc động trước sự tấn công dữ dội của các công ty phương tiện truyền thông liên tục nói với tôi rằng, tôi chỉ có một lần mua hạnh phúc. Và tôi khao khát có cơ hội thực hành Phật pháp trong hòa bình.

 

Vì vậy, tôi thu hẹp thế giới của mình lại những thứ có thể nằm gọn trong một chiếc túi vải quân đội thô to, và tôi đổi quần kaki và áo sơn mi polo của mình thành giày ống và quần jeen. Tôi tìm thấy tự do trong trang trại, nhưng không phải theo cách mà tôi tưởng tượng, và chắc chắn là không nhanh chóng. Thay vào đó, những tháng đầu tiên của cuộc sống nông trại của tôi, chỉ toàn là sự bối rối và đau khổ. Những quan niệm bình dị của tôi về việc tự sản xuất lương thực sẽ như thế nào, đã được thay thế bằng những thực tế vất vả của công việc lao động lưng chừng hoàn thành dưới cái nắng nóng gay gắt.

 

Chân và vai của tôi bị đau vào buổi sáng, khi tôi cố gắng phục hồi sau những nỗ lực của ngày cuối cùng. Và tay tôi bị xé toạc vì chặt vô số cây làm chất đốt. Tuy nhiên, ngoài cuộc đấu tranh về thể chất, còn có sự xáo trộn về tinh thần khi thư giãn; một sự hỗn loạn xoay quanh hai sự thật không thể tránh khỏi: khi tôi đói, tôi cần ăn. Khi tôi mệt mỏi, tôi cần ngủ. Cuộc sống của tôi, giống như cuộc sống của mọi sinh vật sống trên trái đất, xoay quanh những sự thật đơn giản này.

 

Khi tôi đang làm một công việc thứ 9-5, tôi được gặp công ty cung cấp phiếu lương của tôi – một yêu cầy để trả tiền thuê nhà, và mua thực phẩm ở siêu thị. Khi tôi còn trông đợi ở trang trại, người đã cung cấp một ngôi nhà tầng và ba bữa ăn một ngày để đổi lấy sức lao động.

 

Nếu tôi thành lập công ty của riêng mình, tôi sẽ phụ thuộc vào những khách hàng đã mua hàng của tôi, liên tục cần đặt mong muốn của họ lên trước của tôi. Và điều này cũng đúng nếu tôi điều hành trang trại của riêng mình. Vì vậy, khả năng ăn và ngủ của tôi sẽ luôn nằm trong tay người khác.

 

Tìm kiếm “Tự Do” bên ngoài thế giới vật chất là không thể có.

 

Tất nhiên, tôi không phải là người đầu tiên nhận ra điều này. Trong hành trình tâm linh của chính mình, Khi Đức Phật còn là Thái tử rời Hoàng cung vào núi tuyết tu hành, Ngài cũng dao động giữa hai thái cực của chủ nghĩa khoái lạc và chủ nghĩa khổ hạnh, hy vọng sẽ tìm thấy tự do trên lộ trình. Tuy nhiên, thú vui của chủ nghĩa khoái lạc chỉ thoáng qua lúc ở cung vàng điện ngọc, trong khi thực hành khổ hạnh cực đoan đến kiệt quệ sức khỏe tưởng chừng như Ngài sắp chết. Không thể thoát khỏi thực tại của thế giới vật chất, Đức Phật đã chọn cách tìm tự do bên trong tâm thức.

 

Đức Phật cũng phải ăn. Đức Phật cũng phải ngủ. Những sự thật này là không thể tránh khỏi. Ngài đã tìm thấy sự giải thoát bằng cách thay đổi nhận thức, không sống trong cực đoan, luôn thẳng tiến trên “Con đường Trung đạo”; sống một cuộc sống bắt nguồn từ trí tuệ và từ bi tâm thay vì tham lam, sân hận và si mê.

 

Sau tám tháng sống và làm việc trong các trang trại hữu cơ, tôi nhận ra rằng tôi phải noi gương Đức Phật vĩ đại. Tôi nhận ra rằng tôi không thể thoát khỏi Luân hồi, nhưng tôi có thể chọn cách tôi sống trong đó, tìm sự tự do trong sự ràng buộc tôi trong khung khổ.

 

Trải qua nhiều năm, tôi đã thêm một sự chiêm nghiệm về lòng tri ân vào việc ứng dụng thực tế giáo lý từ bi trí tuệ của Đạo Phật trong cuộc sống thường nhật của mình, điều này đã giúp tôi trọn ước nguyện trong sự tự do. Thật đơn giản: Tôi xem xét các vật dụng vật chất xung quanh trong phòng mình, và mô tả những cách đơn giản để chúng cải thiện cuộc sống của tôi, đặc biệt tập trung vào việc liệu chúng có giúp đáp ứng các nhu cầu cơ bản về việc ăn và ngủ của tôi hay không.

 

Ví dụ, tôi có thể nhìn vào chiếc đèn và nói, “Chiếc đèn đó cho phép tôi làm việc vào ban đêm mà không bị căng mắt. Nó giúp tôi kiếm tiền để có thể mua thức ăn”. Hoặc tôi có thể nói, “Cây rắn của tôi làm sạch không khí trong căn hộ của tôi, và giúp tôi đi vào giấc ngủ nhanh hơn”.

 

Điều này cũng có tác dụng đối với kinh nghiệm và ý tưởng. Ví dụ, tôi có thể nói: “Đạp xe hằng ngày giúp tôi thư giãn sau một ngày dài làm việc, và cải thiện chất lượng giấc ngủ của  tôi”.

 

Nếu tôi tìm thấy một đối tượng hoặc trải nghiệm nào trong cuộc sống của mình, cản trở khả năng ăn, ngủ hoặc trải nghiệm bình yên của tôi, thì tôi loại bỏ nó. Bằng cách này, tôi không ngừng buông bỏ bất cứ điều gì ngăn cản cảm giác tự do của tôi trong cuộc sống hằng ngày, và bày tỏ lòng tri ân đối với những điều làm cho cuộc sống trong thế giới vật chất thú vị hơn.

 

Đây là trọng tâm của việc thực hành Phật giáo. Đây là sự giải thoát: Buông bỏ những thứ làm tổn thương chúng ta, và chấp nhận rằng chúng ta không thể buông bỏ mọi thứ.

 

Nam mô A Di Đà Phật

 

* Tác giả Sensei Alex Kakuyo, vị tăng sĩ Phật giáo, vị giáo thọ về Thiền chánh niệm. Là một cựu quân nhân Thủy quân lục chiến, Thầy đã phục vụ trong quân đội tại các nơi như Iraq và Afghanistan trước khi xuất gia học Phật. Thầy có bằng cử nhân Triết học từ Đại học Wabash College, và Thầy giúp cho sinh viên chuyển hóa các hoạt động thường nhật qua thực nghiệm tâm linh. Thầy là tác giả của tác phẩm “Một cách Hoàn hảo với người bình thường: Giáo lý Đạo Phật cho Cuộc sống Hằng ngày” (Perfectly Ordinary: Buddhist Teachings for Everyday Life)

 

Thầy Sensei Alex Kakuyo xuất gia theo trường phái của Trưởng lão Hòa thượng Gyomay Kubose (1905-2000) tại Hoa Kỳ vào tháng 5 năm 2018. Thầy làm giáo thọ giảng dạy tại Trung tâm Bright Dawn Center of Oneness Buddhism, California, Hoa Kỳ. Thầy giảng dạy một cách tiếp cận không hạn chế trong giáo phái nào trong Phật pháp, khuyến khích sinh viên tìm thấy giáo lý từ bi trí tuệ đạo Phật trong cuộc sống hằng ngày.

 

Thầy Sensei Alex Kakuyo là một trong những vị giảng sư Phật học trẻ tuổi và thú vị nhất hiện nay. Sự tiếp cận của Thầy về Phật giáo là một cách khác biệt. Sự khác biệt rõ ràng nhất là Thầy là người Mỹ da đen. Việc Thầy là một cựu quân nhân khiến các Phật tử Mỹ quan tâm và có một cái nhìn về Thầy rất khác về nhiều vấn đề. Thầy hoàn toàn không phải là những gì mọi người đang mong đợi, khi họ tìm kiếm một bậc Đạo sư tâm linh khuôn mẫu. Và đây là một điều tuyệt vời. Đã từ lâu, Phật giáo tại Hoa Kỳ tập trung vào một đối tượng quá hạn hẹp. Văn phong của  Thầy Sensei Alex Kakuyo mạch lạc và chân thành. Thiết nghĩ rằng, nhiều người thường không quan tâm đến Phật giáo sẽ thấy bài viết của Thầy Sensei Alex Kakuyo rất hấp dẫn.


Các bài viết của Thầy đã xuất hiện trên các Tạp chí  Elephant Journal, Rebelle Society, Sivana Spirit và Common Ground Magazine.

 

Tác giả: Sensei Alex Kakuyo

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: 佛門 網)

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/05/2021(Xem: 7632)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4777)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6218)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5355)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12197)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5380)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
15/05/2021(Xem: 4964)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5109)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4463)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4155)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]