Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đánh giá Tác phẩm “Phát triển mạnh trong Khủng hoảng Phật giáo và sự Xáo trộn Chính trị tại Trung Quốc 1522 – 1620”

29/09/202007:49(Xem: 5874)
Đánh giá Tác phẩm “Phát triển mạnh trong Khủng hoảng Phật giáo và sự Xáo trộn Chính trị tại Trung Quốc 1522 – 1620”

Đánh giá Tác phẩm “Phát triển mạnh trong Khủng hoảng

Phật giáo và sự Xáo trộn Chính trị tại Trung Quốc 1522 – 1620”

(Book Review: Thriving in Crisis: Buddhism and Political Disruption in China, 1522–1620)

 Hình 1 Tác phẩm Phát triển mạnh trong Khủng hoảng Phật giáo và sự Xáo trộn Chính trị tại Trung Quốc

Hình 1: Tác phẩm “Phát triển mạnh trong Khủng hoảng Phật giáo và sự Xáo trộn Chính trị tại Trung Quốc 19522 – 1620”. Ảnh: columbia.edu

 

Trong khi ý tưởng về Phật giáo đã đạt đến một vị thế rõ ràng trong triều đại nhà Minh (1368-1644) đã lỗi thời trong giới học giả, nó vẫn tồn tại bởi vì vẫn còn tồn tại quan niệm phổ biến, ngay cả trong giới Phật giáo đương đại, rằng Phật giáo đã đạt đến đỉnh cao về trí tuệ, và triết học vào triều đại nhà Đường (618-907), trước khi bị tê liệt bởi nhiều cuộc khủng hoảng và đàn áp, sau đó suy tàn vào triều đại nhà Tống (960-1279) và kế đến triều đại nhà Minh. Đây không phải là hoàn toàn nhầm lẫn, cũng không phải là đầy đủ câu chuyện. Nhà xuất bản Đại học Columbia một lần nữa đã phát hành một nghiên cứu đột phá, có thể thay đổi sự hiểu biết của học giả - và có lẽ là nhiều năm sau, sự hiểu biết phổ biến – về kinh nghiệm của Phật giáo vào triều đại nhà Minh.

 

Cuốn sách của tác giả Trương Đức Duy (張德維) “Phát triển mạnh trong Khủng hoảng Phật giáo và sự Xáo trộn Chính trị tại Trung Quốc 19522 – 1620” (Book Review: Thriving in Crisis: Buddhism and Political Disruption in China, 1522–1620; 逆勢而起: 1522-1620 年間中國佛教與政治的動盪), một cuốn sách du lịch với mở đầu một câu hỏi: làm thế nào mà cuộc đổi mới Phật giáo cuối triều đại nhà Minh trở nên khả thi, sau một thời kỳ trì trệ hơn 100 năm và xem xét “Sự hồi sinh từ cả quan điểm tôn giáo và phi tôn giáo để tìm kiếm những động lực và động lực cần thiết”. (trang 7)

 

Phương pháp luận của tác giả Trương Đức Duy (張德維) rất đơn giản, nhưng chặt chẽ và tỉ mỉ vì ông lấy cảm hứng từ trường phái sử học Annales (Biên niên Sử) của Pháp:

 

“Thông qua việc kiểm tra những gì của nguồn gốc, cuối cùng sẽ phát triển thành một sự đổi mới toàn diện, hy vọng là tạo ra một bức tranh và khi thời gian chặt chẽ hơn nhiều về sự hồi sinh tổng thể. Hơn nữa, để nhắc lại sự nhấn mạnh của trường phái sử học Annales (Biên niên Sử) của Pháp về các yếu tố cấu trúc, nghiên cứu này xem xét thời kỳ đầu của triều đại nhà Minh, khi các hệ tư tưởng nhà nước được thiết lập, và các chính sách Phật giáo được thiết kế. Do đó, nó tiếp cận sự đổi mới từ ba khía cạnh của khoảng 50, 100 và 200 năm”. (trang 12)

 

Thông qua lăng kính phương pháp luận này, tác giả Trương Đức Duy (張德維) bắt đầu và thành công trong việc kết hợp tường thuật vĩ mô, và phân tích lịch sử vi mô, cùng với khoa học chính trị, để kể một câu chuyện hấp dẫn và thuyết phục về công cuộc đổi mới Phật giáo trong thời đại nhà Minh Trung Hoa.

 

Cuốn sách được phân chia theo các phần tập trung vào các trường phái, và cá nhân cụ thể đã đinh hình quỹ đạo của thể chế Phật giáo thời đại nhà Minh. Ví dụ, chương hai và ba lần lượt đề cập đến Minh Thế Tông (明世宗, tại vị 1521-1567), vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Minh trong lịch sử Trung Hoa, một trong những vị Hoàng đế Trung Hoa tại vị trên ngai vàng lâu nhất và Hiếu Định Hoàng Thái hậu (孝定皇太后, 1540-1614). Bà là vị Hoàng Thái hậu tại vị cuối cùng theo lịch sử Nhà Minh, và đồng thời là Hoàng Thái hậu người Hán cuối cùng.

 

Các chương 4, 5, 6 và 7 lần lượt thảo luận về sự tham gia vào Phật giáo của các hoạn quan, học giả-quan chức, các vị tăng sĩ Phật giáo uyên thâm lỗi lạc và các ngôi già lam tự viện Phật giáo: Tất cả các nhóm lợi ích và thành phần có ảnh hưởng theo ý riêng của họ và thời hậu Minh.

 

Cuối cùng, Chương 8, thảo luận về một đòn đặc biệt gây tổn hại cho trật tự Phật giáo ở Trung Hoa: Việc mất Kinh đô Bắc Kinh như một cơ sở quyền lực. Trong mỗi chương, sự chú ý đáng kể được tập trung vào các cá nhân cụ thể, và cách họ thúc đẩy sự phát triển của lợi ích nhóm của họ. Từ rất lâu, trước khi thực sự phát đạt như trong tiêu đề của cuốn sách, vào triều đại của Hoàng đế Minh Thế Tông, cộng đồng Phật giáo đã chịu trận đòn lâu dài vốn đã có vị thế bấp bênh:

 

“Sự khắc nghiệt của Hoàng đế Minh Thế Tông đối với Phật giáo, phản ánh sở thích tôn giáo của ông với tư cách cá nhân, nhưng với tư cách là một vị Đế vương, ông không thay đổi vị trí đã được thiết lập của nhà nước, ngoại trừ quan trọng là đóng cửa lễ tấn phong. Lòng sùng đạo tôn giáo, tính toán chính trị, lý tưởng văn hóa và đạo đức được nhận thức đều có tác dụng đằng sau sự ác cảm của ông đối với Phật giáo. Trong một số trường hợp, đáng chú ý với mục tiêu của ông không phải là Phật giáo nói chung mà là các nhóm cụ thể như ni cô. . .

 

Vừa là vị Hoàng đế chỉ huy thần dân tuân theo mệnh lệnh của mình, vừa là hình mẫu mời gọi người khác tự nguyện làm theo, Hoàng đế Minh Thế Tông đã có ảnh hưởng sâu sắc đến Phật giáo ở thời đại của ông. Trong nội cung, ông đã thành công trong việc kìm hãm lòng nhiệt thành trong triều đại với giới tinh hoa tôn kính Đạo Phật. Trong xã hội địa phương bên ngoài kinh đô, ảnh hưởng sự ác cảm của ông đối với Phật giáo thường được tăng cường khi các quan chức địa phương trình nghị sự của riêng họ. Tình trạng này kéo dài thời gian gần nửa thế kỷ và do đó đã tạo nên một môi trường nói chung là thù địch với Phật giáo”. (Trang 5)

 Hình 2 Minh Thế Tông Hoàng đế Vạn Lịch

Hình 2: Minh Thế Tông (明世宗, Hoàng đế Vạn Lịch, trị vì 1572-1620). Ảnh: geissfoundation.us

 

Ngược lại, Hiếu Định Hoàng Thái hậu (孝定皇太后) hiền mẫu của Minh Thế Tông (明世宗, Hoàng đế Vạn Lịch, trị vì 1572-1620), là một vị nữ cư sĩ Hộ pháp bảo trợ mạnh mẽ và chân thành với Phật giáo. Tác giả Trương Đức Duy (張德維) lưu ý rằng, dựa trên đối chiếu bằng văn bản, Hiếu Định Hoàng Thái hậu (孝定皇太后, 1546-1614) đóng góp cho Phật giáo thông qua ba cách: “Hỗ trợ tài chính cho các ngôi già lam tự viện Phật giáo, phân phối kinh điển Phật giáo và liên kết trực tiếp với chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo”. (trang 67).

 

Hiếu Định Hoàng Thái hậu (孝定皇太后) “đã thu hút được sự ủng hộ và bảo trợ lớn cho Phật giáo trong suốt hai thập kỷ đầu, nhờ một số lợi thế nhất định nhưng sau đó phải chịu những hạn chế nghiêm trọng, bởi liên quan đến hai điểm yếu: thân phận của Hiếu Định Hoàng Thái hậu (孝定皇太后) như một phụ nữ cung đình, và nhà vua xem Phật giáo là một chủ nghĩa dị đoan”. (trang 88)

 

Cùng với hành trình chính trị đầy biến động, liên tục thay đổi này là các hoạn quan, những người có quyền lực, theo Tác giả Trương Đức Duy (張德維) “Về cơ bản phụ thuộc vào sự sủng ái của vị Hoàng đế” và do đó “tỏ ra nhạy cảm nhất với những thay đổi trong môi trường chính trị. Họ nhanh chóng điều chỉnh với lập trường phù hợp để bảo vệ Hoàng đế, nếu không tối đa hóa lợi ích của chính họ. Vì đã có những thay đổi mạnh mẽ trong cách các vị vua giải quyết các vấn đề Phật giáo trong thời đại của Minh Thế Tông (明世宗, Hoàng đế Vạn Lịch, các hoạn quan được ưu tiên dành cho những người cai trị hơn sở thích của họ, khiến mối quan hệ của họ với Phật giáo trở nên phức tạp”. Nhìn chung, họ ủng hộ Phật giáo, và với tư cách là một nhóm lớn, họ có thể “Huy động một lực lượng lớn các nguồn lực để ủng hộ Phật giáo. Nhưng sự mong manh vốn có trong mối quan hệ gia đình giả tạo là hiển nhiên, và không thể tránh khỏi. Một khi bản quan (本官) có ảnh hưởng khi qua đời hoặc mất quyền lực, điều đó thường có nghĩa là sự kết thúc của các nhóm được xây dựng xung quanh ông ta”. (Trang 105)

 

Một trong những gương mặt chính trị của tầng lớp chính trị Trung Hoa, học giả-quan chức, cũng có mối quan hệ không rõ ràng với Phật giáo. “Theo ngữ cảnh, chính sách bài trừ Phật giáo của Minh Thế Tông (明世宗, Hoàng đế Vạn Lịch, trị vì 1572-1620), đã góp phần rất lớn trong việc các học giả-quan chức thờ ơ, hoặc thậm chí xâm phạm Phật giáo, trong khi sự xuất hiện của Hiếu Định Hoàng Thái hậu (孝定皇太后) trên chính trường, đã khơi dậy nhiệt tình trong những năm đầu niên hiệu Vạn Lịch”. Mối quan hệ giữa Phật giáo thể chế và giới tinh hoa quan liêu này, là một trong những sự củng cố lẫn nhau trong thời kỳ tốt đẹp, hoặc một vòng luẩn quẩn của sự từ bỏ ý thức hệ (bởi các học giả-quan chức) và sự phụ thuộc quá mức vào ngày càng ít người bảo trợ (bởi các tu viện Phật giáo) trong thời kỳ tồi tệ.

 

Tác giả Trương Đức Duy (張德維) viết: “Như ẩn dụ hai đầu về con ngựa bị bắt, Phật giáo không bao giờ có toàn quyền trong việc xác định mối quan hệ của mình với học giả-quan chức. Điều gì có thể xảy ra với Phật giáo nếu các học giả-quan chức, những người đóng vai trò là nguồn lực đáng kể về trí tuệ, xã hội và kinh tế, hoàn toàn trở lại với Nho giáo, và cho nhà nước với cái giá phải trả là Phật giáo?”. (trang 155)

 Hinh 3Hiếu Định Hoàng Thái hậu (孝定皇太后, 1546-1614)

Hình 3: Hiếu Định Hoàng Thái hậu (孝定皇太后, 1546-1614). Ảnh: 維基百科


Phe quyền lực cuối cùng và quan trọng nhất là Tăng đoàn Phật giáo tại các tu viện, những người bị ảnh hưởng mà tác giả Trương Đức Duy (張德維) xác định là Thiền sư Hám Sơn Đức Thanh (憨山德清, 1546-1623), vị Thánh tăng Phật giáo trong Thiền tông và Tịnh độ tông, vị Thánh tăng để lại rất nhiều lời giảng dạy Phật pháp cho mọi tầng lớp trong xã hội thời bấy giờ. Sau khi nhập diệt, Ngài đã lưu lại toàn thân Xá Lợi (Kim Cương thân bất hoại), hiện thờ phụng tại Tổ đình Nam Hoa Thiền Tự, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc; Thiền sư Diệu Phong Phúc Đăng (妙峰福登, 1540–1612), vị cao tăng Phật giáo nổi tiếng, Ngài được sự bảo trợ trong 30 năm của Hiếu Định Hoàng Thái hậu (孝定皇太后) vào thời kỳ trị vì của Minh Thế Tông Hoàng đế Vạn Lịch và Thiền sư Chân Khả Tử Bách (紫栢真可, 1543–1604). Bất chấp sức hút và tham vọng của họ:

“Tất cả họ đều phải chịu những hạn chế về cơ cấu đối với Phật giáo, có thể bắt nguồn từ đầu thời nhà Minh. Theo lệnh của họ, không ai trong số họ có đủ nguồn lực, điều này là do nền kinh tế của các cơ sở tự viện Phật giáo suy yếu rất nhiều. Không có hành động nào được dàn xếp ở cấp cao hơn khi họ tham gia vào các dự án quy mô lớn này. Cơ hội thành công đã giảm đáng kể, nhưng thiếu sự cộng tác này ít liên quan đến các lựa chọn cá nhân của họ hơn là do sự mất quyền tự chủ về thể chế tăng đoàn Phật giáo. . . Mặc dù Phật giáo đôi khi tỏ ra đầy hứa hẹn, nhưng vị thế yếu ớt và bên lề của nó trong cơ cấu quyền lực hầu như không được cải thiện. Trong bối cảnh này, những vị tăng sĩ Phật giáo đầy tham vọng này đã phải phụ thuộc nhiều vào thế tục, điều khiến họ dễ bị ảnh hưởng bởi chính trị đương thời”. (trang 197)

 

Chương chính cuối cùng của tác giả Trương Đức Duy (張德維), khám phá cái nhìn sâu sắc đáng kể mà các ngôi già lam tự viện Phật giáo ở khu vực Bắc Kinh, có thể cung cấp về vận may của Phật giáo trong mỗi thời kỳ suy tàn, hoặc phục hưng đáng kể vào thời đại nhà Minh. Suy nghĩ cuối cùng của ông trong kết luận của ông là cực kỳ sâu sắc nếu tỉnh táo: bởi những lý do khác nhau và phức tạp, mặc dù có nhiều nỗ lực phục hưng của các lực lượng hoàng gia, triều đình, quan liêu và cơ sở tự viện Phật giáo thời đại nhà Minh, “công cuộc đổi mới Phật giáo đã kết thúc vào đầu triều đại nhà Thanh, và sau đó vẫn còn ở mức xuống thấp”. (trang 247)

 

Tác phẩm này là một chuyên khảo cao cấp, cung cấp một nền tảng cập nhật và toàn diện, để bối cảnh hóa những điểm yếu mà Phật giáo đã trở nên dễ mắc phải trong thời đại nhà Minh, kéo dài đến triều đại nhà Thanh.

 

Nhận thức về tình trạng trì trệ của Phật giáo trong hai triều đại này, có nguồn gốc sâu xa từ thời đại của Minh Thế Tông, Hoàng đế Vạn Lịch trị vì. Chính vì danh tiếng không mấy tốt đẹp này, mà làn sóng phục hưng Phật giáo thực sự và mạnh mẽ, từ triều đại của Minh Thế Tông, Hoàng đế Vạn Lịch trở đi, cần được chú ý khẩn cấp, và có hệ thống. Nếu bỏ qua nó sẽ là một điều bất lợi đối với giai đoạn đó của lịch sử Phật giáo Trung Hoa, thì chúng ta cũng phải xem xét các giai đoạn suy tàn hay quán tính, chúng ta cũng nên quan tâm đến những thời điểm mà Phật giáo vàng son trở lại, bất kể sự tồn tại ngắn ngủi như thế nào.

 

Thích Vân Phong biên tập

(Nguồn: 佛門網)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/11/2015(Xem: 10641)
Chiều ngày 30 tháng 10 năm 2015 (18/09 năm Ất Mùi) tại chùa Huyền Không Sơn Thượng, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế đã diễn ra buổi lễ hành chính dâng Y Kathina do Phái đoàn Đại diện Quốc Vương Thái Lan cúng dường. Phái đoàn Đại diện Vương Quốc Thái Lan có ông Prả-chuộp Chằy-yả-xán - Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao, Chủ tịch Hội hữu nghị Thái - Việt, Đại diện Quốc Vương Phu-mí-phôn Á-đul-yá-đệt và Hoàng gia Thái Lan; cùng các thành viên, các Phật tử Thái Lan tháp tùng trong phái đoàn.
12/11/2015(Xem: 8249)
"...Các con hy sinh một chút xíu, dễ thương một chút, nhẫn nhịn một chút xíu thì ngay trong đời sống này các con đang tập luyện một đức tính của ngọc." Hôm nay Thầy sẽ nói chuyện với các con về đề tài "Đá biến thành ngọc". Sao gọi là đá biến thành ngọc? Thầy mới đọc một cuốn sách và chính cuốn sách đó gợi ý cho Thầy buổi nói chuyện với các con hôm nay. Trong đó, tác giả đưa ra một hình ảnh rất bình thường, cụ thể về một hòn đá sỏi, lăn lóc vô tri giống như là một hòn đá màu xanh mà mình đi đạp thường ngày và không ai để ý tới nó.
11/11/2015(Xem: 9709)
Đừng mất thì giờ phân định việc thị phi cho rành mạch đen trắng trong khi tất cả đều chỉ là tương đối trong tục đế mà thôi. Cái đúng với người này có thể sai với người khác, cái phải ở chỗ kia có thể trái ở nơi nọ, cái đang đúng lúc này không hẳn sẽ đúng về sau v.v...*
08/11/2015(Xem: 7181)
Một hôm, sau bữa ăn sáng, thầy Pháp Sứ hỏi tôi có bận gì chiều nay không. Tôi nói rằng không. Thế rồi thầy bảo “Quý thầy đợi chú lúc 15h ở bãi đỗ xe gần tăng xá”. Tôi gật đầu nhận lời.
07/11/2015(Xem: 9508)
Dưới đây là một bài thuyết giảng của nhà sư Ajahn Sumedho vào mùa kiết hạ năm 1994 tại ngôi chùa Amaravati do chính ông thành lập ở Anh Quốc. Ajahn Sumedho là một người Mỹ (tên thật là Robert Jackman), sinh năm 1934, và là đệ tử của vị đại sư Thái Lan Ajahn Chah (1918-1992). Ông hoằng pháp ở Anh từ năm 1977 và đã thành lập nhiều ngôi chùa tại Anh quốc.
07/11/2015(Xem: 8819)
Cách đây nhiều năm trong một chuyến công tác ở Moscow - Liên bang Nga, ông chú tôi, một quan chức trong ngành điện lực, sau cuộc hội thảo chuyên môn, giờ giải lao, một cán bộ cấp cao, một nữ phó tiến sĩ người Nga tâm sự: “Các anh may mắn hơn chúng tôi, các anh có niềm tin vào tôn giáo hay một thứ tín ngưỡng nào đó, còn chúng tôi, sau khi Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Đông Âu tan rã, chỉ còn sự trống rỗng, hầu như chúng tôi chẳng biết tin vào điều gì bây giờ!”. Ở các nước phát triển, nhiều người tìm đến với Phật giáo vì đó là lối sống có thể ứng dụng mọi lúc mọi nơi, đem lại lợi ích thiết thực cho mình, cho người, cho môi trường..
06/11/2015(Xem: 12744)
Từ ngã ba trước trụ sở thị xã Ninh Hòa, rẻ về tay trái đi theo quốc lộ 26 hướng về Ninh Phụng, đi khoảng 3km đến quán Bảy Búa, rẻ phải theo hương lộ Ninh Phụng - Ninh Thân đi khoảng 500m nửa là đến chùa cổ tich Linh Quang (thôn Xuân Hòa, xã Ninh Phụng, Ninh Hòa).
05/11/2015(Xem: 8437)
Chuyến tàu chở chúng tôi từ Paris về ga Saint Foy La Grande đúng không sai một phút. Xuống tàu tìm mãi không thấy ai đón. Chúng tôi ra ngoài cửa ga đợi nửa tiếng vẫn không thấy ai. Thế là bắt đầu sốt ruột. Tìm lại trong người và hành lý thì hoàn toàn không có điện thoại của Làng Mai, không có địa chỉ. Nghĩ lại thấy mình thật là không cẩn thận, không chu đáo. Biết đi đâu bây giờ. Từ ngày rời Việt Nam tôi không hề dùng điện thoại, chỉ check email và vào facebook up tin một chút vào buổi tối mới mà thôi.
05/11/2015(Xem: 14545)
Chúng con, một nhóm PT mới dịch xong cuốn quotations "All You Need Is Kindfulness " của Đại Sư Ajahn Brahm. “Kindfulness” là danh từ mới do Ajahn Brahm đặt ra để chỉ “mindful” nghĩa là “sati”, tỉnh thức (hay thường được gọi là chánh niệm) với “kindness”- tâm từ ái. Ajahn luôn luôn nhấn mạnh rằng chỉ chánh niệm không thôi chưa đủ mà chúng ta cần phải thêm vào đó cái "nguyên tố kỳ diệu của tâm từ ái".
31/10/2015(Xem: 14706)
rang mạng Buddhaline.net, một trang mạng Phật giáo rất uy tín vừa phổ biến lá thư số 139 (tháng 10/2015) với chủ đề "Thiền Định", nhằm đánh dấu 15 năm thành lập trang mạng này, và đồng thời kêu gọi những người Phật tử khắp nơi hãy hưởng ứng chương trình "24 giờ thiền định cho Địa cầu" ("24 heures de méditation pour la Terre") sắp được tổ chức trên toàn thế giới.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]