Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ấn tượng Kim Các Tự tại Chùa Nghĩa Sơn

27/09/202009:22(Xem: 6900)
Ấn tượng Kim Các Tự tại Chùa Nghĩa Sơn

Tùy bút

Ấn tượng Kim Các Tự tại Chùa Nghĩa Sơn

           Thời gian vừa qua, thật hết sức ngạc nhiên khi tôi tình cờ xem được trên dòng Facebook những bức ảnh lưu niệm của bạn bè, đạo hữu khoe cho thấy họ đã ở rất gần bên Kim Các Tự, một danh lam nổi tiếng ở Kyoto, Nhật Bản. Thoạt đầu, cứ tưởng là mọi người được phước duyên xuất ngoại ngao du qua tận xứ sở hoa anh đào, được “tận mục sở thị” ngôi chùa “Gác Vàng” được dát vàng, còn mình thì cứ quanh quẩn với chùa chiền tự viện trong tỉnh, trong nước… Nhưng xem đọc kỹ lại mới hay, Kim Các Tự đó chỉ là hình dáng mô phỏng lại nguyên bản ở nước Phù Tang, và đang tọa lạc ngay trong nước, ngay trên vùng đất hẻo lánh mang tên Trảng É, cách trung tâm thành phố biển Nha Trang chừng 10 cây số. Nói cho rõ hơn, Kim Các Tự mô phỏng ở thôn Phước Sơn, xã Phước Đồng chỉ là một công trình kiến trúc phụ của một ngôi đại tự mang phương danh Nghĩa Sơn, cũng giống như Kinkaku-ji (Kim Các Tự- Chùa Gác Vàng) chỉ là một kiến trúc trong khuôn viên rộng lớn của Rokuon-ji (Lộc Uyển Tự - Chùa Vườn Nai) ở Nhật Bản.

          Xã Phước Đồng nằm về hướng Đông-Nam của thành phố Nha Trang, là một thung lũng được bao quanh bởi các khối núi cao như núi Cù Hin, Hòn Rớ, Đồng Bò… Xưa kia vùng hoang vắng đìu hiu này dân cư thưa thớt, dân đều khó nghèo sống nhờ vào nghề  lặn biển, đánh cá, làm rấy và đốt than. Từ những năm xây dựng nông thôn mới, di dời dân cư ở phố ra ngoại ô, thành lập những khu tái định cư, vùng đất Phước Đồng mới trở mình thay hình đổi dạng, dân số gia tăng, nhà xây quán mở, và những tịnh xá, tịnh thất, chùa nhỏ chùa lớn đã xuất hiện như những đóa hoa sen thơm ngát vươn lên từ vũng lầy tanh tao…

         Từ trung tâm thành phố Nha Trang di chuyển theo đường Phong Châu, qua hai chiếc cầu mới được xây bắc xong, sẽ gặp một ngã tư, rẽ phải theo tỉnh lộ 657K nay đã được đặt tên là An Lạc,  ai đặt tên đường thật là hay, tiếp tục đi thêm khoảng hơn 3 cây số nữa sẽ thấy ngay bên vệ đường hiện lên cổng chào và tảng đá khắc tên chùa bằng thư pháp uyển chuyền.

        Khi đến được trước cổng chào của chùa, nếu dừng lại ít phút để nhìn ngắm kỹ, ta sẽ thấy hai dãy tường đã cũ bạc trầy tróc, và trụ cổng trên có hoa sen búp. Đó là tường trụ cũ trước kia của chùa, của thời kỳ đầu kiến lập. Sau này được đại trùng tu, lùi vào bên trong một quãng thật xa là cổng tam quan uy nghiêm, nên tường trụ của cổng cũ vẫn được giữ lại đó như để đánh dấu lưu niệm công đức của Thầy Tổ khai sơn lập tự.

        Gần 30 năm trước, vào năm Kỷ Dậu 1993, nhằm tạo điều kiện cho cư dân vùng nông thôn mới, và cả vùng núi quạnh quẽ vốn là vùng Đồng Bò chiến khu xưa, có một chốn ra vào để nương tựa sinh hoạt tín ngưỡng, lo cho đời sống tâm linh hướng thiện đoạn ác, cố Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tâm, Trưởng Ban Nghi Lễ T.Ư. Giáo Hội PGVN, Chứng minh Ban Trị Sự Tỉnh Giáo Hội Khánh Hòa, Viện chủ Tổ đình Nghĩa Phương  (đường Lý Thánh Tôn –  TP. Nha Trang) đã phát tâm từ bi khai sơn kiến lập một tịnh thất đơn sơ để thờ phụng Tam Bảo, làm nền móng cho một ngôi già lam thánh chúng truyền bá chánh pháp, phổ độ chúng sinh về sau này. Ngài đã đặt tên cho chốn tịnh tu này là Nghĩa Sơn, là vì chọn chữ “Nghĩa” từ “Tông phong Nghĩa Phương”, và ghép với chữ “Sơn” lấy từ địa danh thôn “Phước Sơn” của xã Phước Đồng. Được biết thêm một nguyên nhân sâu xa nữa, là do Cố Hòa thượng Thích Bích Lâm bổn sư truyền giới của Ngài xưa kia vốn trụ xứ ở ngôi chùa mang tên Nghĩa Sơn ngoài Quảng Ngãi, nhưng sau do chiến tranh loạn lạc nên ngôi chùa này đã không còn lưu vết tích gì, chỉ còn khắc in trong tâm tưởng của người đệ tử luôn ghi nhớ trọng ân của Thầy Tổ…

         Trong suốt quãng thời gian từ lúc khai sơn kiến lập tịnh thất Nghĩa Sơn cho đến khi xả bỏ báo thân thâu thần thị tịch vào năm Đinh Dậu 2017, Cố Hòa thượng Thích Trí Tâm đã tu bổ kiến tạo chốn già lam này ngày càng khang trang, hoành tráng, và nâng tầm tịnh thất lên thành một tự viện trang nghiêm nhất vùng. Sau khi Ngài viên tịch, môn đồ pháp chúng truyền thừa đã tiếp tục trùng tu tái thiết ngôi Tam Bảo Nghĩa Sơn, xây dựng thêm những công trình kiến trúc đậm nét mỹ thuật như Bảo Tháp, Nhà Chuông, Quan Âm Đài, Kim Các Tự…

       Kim Các Tự hiển hiện thật ấn tượng bên một hồ nước rộng có cỏ xanh chạy quanh bờ, có thảm cỏ xanh mướt êm ái cho ai muốn ngã lưng nghỉ mệt nằm nhìn ngắm mây trắng thiên thanh; có cây cầu gỗ vòm cong sơn màu đỏ chói theo phong cách Nhật Bản, màu đỏ của núi lửa, màu đỏ của mặt trời mọc. Giữa hồ được điểm xuyết thánh tượng của đức Bồ Tát Quán Tự Tại ngồi ung dung thanh thoát, cạnh đó là một chiếc thuyền độc mộc được thả trôi lênh đênh… “Gác Vàng” này là nơi để bảo tồn, gìn giữ những kỷ vật trong suốt cuộc đời hành đạo của Viện chủ Tổ đình Nghĩa Phương, cũng là vị khai sơn lập tự, trú trì đầu tiên của chùa Nghĩa Sơn. Từ ngôi bảo tháp của Ngài phía bên trên triền núi nhìn xuống ngay phía trước là toàn cảnh của Kim Các Tự hiển bày rõ rệt. Đó cũng chính là hình ảnh Kinkaku-ji còn in đậm trong tâm trí của Ngài từ thời Ngài được bổn sư lo cho du học tại Nhật Bản vào những năm 1965- 1972.

        Từ ngoài tam quan đi vào khuôn viên chùa, nhìn bên tay phải, ta sẽ thấy một cây cầu nhỏ bắc ra bên mé hồ sen, dẫn lên một đài lộ thiên, nhìn cứ tưởng là chỗ để ra ngồi ngắm sen, câu cá... Nhưng thật ra, đó là đài Quán Thế Âm, vì qua ba mùa mưa lũ nên hư hỏng nặng, nhà chùa chưa được thuận duyên để tu sửa. Do đó, tôn tượng đức Bồ Tát Lắng Nghe Quán Thế Âm đã được chuyển vào bên trong, tạm đứng bên Gác Chuông chờ ngày đẹp trời quay về nơi an vị cũ, ai không biết sẽ thấy "hình như" tôn tượng này được đặt không đúng chỗ, và có vẻ... dư thừa.

         Lên chánh điện lạy Phật, ta sẽ thấy phía bên tay trái của tôn tượng Bổn Sư Thích Ca có thiết đặt một bệ thờ tôn tượng một vị nào đó, thoạt nhìn sẽ tưởng là Ngọc Hoàng, hay vị Minh Vương... Nhưng sao nhân vật hàng Thánh Chúng lại được thiết nằm gần bên tượng Bổn Sư? Xin thưa, đó tôn tượng "Đức Chúa Ông"! Đức Chúa Ông chính là doanh nhân Cấp Cô Độc, một trưởng giả giàu nức đố đổ vách, đã bỏ ra một lượng của cải châu báu với số lượng "khủng" để mua lại vườn cây của Thái Tử Kỳ Đà cúng dường Đức Phật và Tăng đoàn. Đức Chúa Ông là đại thí chủ phụng đạo mà cổ kim đông tây chưa có người sánh bằng!

        Dạo quanh khuôn viên chùa, ta còn được nhìn ngắm những cảnh sắc thanh tao thánh thiện qua từng khu vực riêng biệt như tôn tượng Di Lặc Tôn Phật lộ thiên đứng trên đài sen hồng nở nụ cười hỷ lạc, thánh tượng hai vị Hộ Pháp trấn sơn môn với nét đặc thù Việt Nam, những gốc bồ đề và gốc đa có thân gồ ghề gân guốc to đến hai người ôm không xuể. Ta còn thây những hàng dừa, hồ sen hồ súng, những bụi hoa giấy, hoa anh đào đang chờ mùa xuân đơm bông, đan xen cùng những chậu hoa sứ kiểng khoe sắc tỏa hương được bài trí dọc theo các lối đi dẫn vào Vườn Lộc Uyển có thiết bày một Pháp Luân 12 nan thật lớn ngay giữa nơi Đức Phật Thích Ca thuyết giảng Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo cho nhóm ngài Kiều Trần Như lĩnh thọ giáo pháp… Ta còn được chiêm bái đảnh lễ thánh tượng Quán Thế Âm Bồ Tát lộ thiên đặt ngoài sân trước ngôi đại hùng bảo điện với hướng nhìn xuống núi ra bên ngoài cổng tam quan. Nhìn chệch về sân bên phải là miếu thờ ngài Tiêu Diện Hộ Pháp, hóa thân của đức Quán Thế Âm, rồi ra phía sân sau, bên hông ngôi chánh điện là hình ảnh dãy tịnh thất thanh tịnh im ắng, còn có vườn rau sạch cũng là nơi ươm hạt giống một số loài hoa lạ được mang về từ “Xứ sở Hoa Anh Đào”…

        Từ ba năm qua, chùa Nghĩa Sơn không chỉ là nơi Tăng chúng tu hành. đón Phật tử gần xa về tu niệm, mà đã trở thành một thắng cảnh du lịch thu hút bao khách thập phương về lễ Phật, chiêm bái và chiêm ngưỡng một thắng tích danh lam rất ấn tượng với phiên bản Kim Các Tự tuyệt vời. Rất nhiều nhóm nam thanh nữ tú ở nơi xa xôi đã về đến đây để mượn cảnh sắc thanh tao mỹ lệ của chốn thiền tự này làm đẹp cho những thước phim bộ ảnh lưu niệm cho những ngày tháng đặc biệt đáng nhớ của mình. Một khách nhàn du có lưu lại bài thơ Đường luật sau khi vãng cảnh chùa:

Sám hối lên đường lễ Phật xa
Thong dong vãng cảnh quên non già
Hồ sen tĩnh lặng dòng kinh pháp
Tháp Tổ uy nghiêm bóng hải hà
Hộ pháp tam quan oai lẫm liệt
Hương đăng bảo điện sáng nguy nga
Hoa đào ẩn dật chờ xuân đến
Cảnh sắc an vui đẹp ngọc ngà!

Tâm Không – Vĩnh Hữu
Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-2003Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-2000Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1993Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1990Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1983Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1977Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1968Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1965Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1962Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1957Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1955Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1939Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1934Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1928Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1915Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1914Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1903Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1899Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1891Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1885Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1874Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1866Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1863Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1861Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1841Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1835Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1822Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1819Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1815Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1811Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1808Kim Các Tự Chùa Nghia Sơn-1805


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2021(Xem: 5445)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10442)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9253)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6561)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8958)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5124)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5319)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5760)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4625)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5208)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]