Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tình nghĩa thầy trò – Tình bạn tri âm qua khúc đàn “Khổng Vọng Vi”

30/08/202019:43(Xem: 6843)
Tình nghĩa thầy trò – Tình bạn tri âm qua khúc đàn “Khổng Vọng Vi”

Tình nghĩa thầy trò – Tình bạn tri âm

qua khúc đàn “KHỔNG VỌNG VI”

TN Huệ Trân

          Khúc đàn Khổng-Vọng-Vi là tiếng khóc của Đức Khổng Tử, tiếc thương người đệ tử thân yêu Nhan Hồi, mệnh yểu mà chết sớm khi tuổi còn thanh xuân. Tiếng khóc bộc lộ tình thầy trò cực kỳ thắm thiết, cực kỳ cảm động đó đã chạm vào những giây tơ mà bật lên âm thanh, truyền cảm tới thẳm sâu tâm linh hậu thế.

          Nhan Hồi là người đệ tử được Đức Khổng Tử đặt nhiều kỳ vọng nhất, vì trí tuệ và đạo hạnh vượt trội trong hàng môn đồ. Vậy mà một lần Nhan Hồi suýt bị hàm oan và Đức Khổng Tử sẽ mang niềm ân hận khó xóa nhòa, nếu hàm oan đó không tình cờ bộc bạch.

          Đó là thời Đông Chu, chiến tranh lan tràn, khắp nơi dân chúng lầm than đói lạnh. Đức Khổng Tử dẫn môn đồ từ nước Lỗ sang đất Tề để tùy thuận tùy duyên mà an ủi khổ đau bao người.

          Dân đói thì thầy trò cùng đói, thực phẩm khi có, khi không, vẫn một lòng vững bước. Tới đất Tề, một phú ông cảm động, đã cúng dường một phần gạo để thầy trò tạm no lòng. Nơi dừng chân, Nhan Hồi lãnh nhiệm vụ nấu cơm, trong khi các bạn đồng môn vào rừng kiếm thêm rau trái.

           Đang đọc sách gần nơi đặt bếp nấu, Đức Khổng Tử chợt nghe những tiếng động hơi bất thường từ đó phát ra. Nhìn qua vách liếp, Ngài thấy Nhan Hồi mở nắp nồi, rồi đậy lại, rồi lại mở; và sau đó, lấy đũa vét mấy nắm cơm, nhìn quanh trước sau rồi đưa cơm vào miệng.
Tình nghĩa thầy trò – Tình bạn tri âm  qua khúc đàn “Khổng Vọng Vi”-1

           Đức Khổng Tử bàng hoàng, không thể tin nơi những gì chính mắt mình vừa nhìn thấy. Trời ơi, người học trò mình hết lòng tin yêu mà cũng bị cái thèm, cái đói làm tan vỡ bao kỳ vọng! Chỉ ăn vụng mấy miếng cơm mà Nhan Hồi không còn là Nhan Hồi nữa! Đau đớn thay! Thất vọng thay!

Khi cơm và rau được dọn lên bàn thì Nhan Hồi bèn chắp tay thưa rằng:

     -Bạch Sư Phụ, trước khi bưng cơm lên, con có mở nắp nồi, xem cơm đã chín chưa, thì một luồng gió mạnh chợt ập tới, khiến những bụi bẩn trên nóc bay cả xuống nồi cơm. Con lấy đũa gạt, định bỏ phần cơm bẩn đi, nhưng nghĩ cơm ít mà huynh đệ đông, bỏ đi phần cơm bẩn thì phần của mỗi huynh đệ phải bị bớt một ít, nên con mạn phép Sư Phụ, đã ăn phần cơm bẩn đó. Bây giờ, con chỉ xin nhận phần rau thôi, vì đã ăn cơm rồi.

       Như ngàn cân trĩu nặng trong lòng vừa được buông xuống, Đức Khổng Tử đã không ngăn nổi xúc động, ngước mặt nhìn trời mà than: “Tạ ơn Trời Đất, chút xíu nữa thôi, là Khổng Tử này đã vội hồ đồ, kết tội oan đệ tử. Hóa ra trên đời có những điều chính mắt ta nhìn vậy, mà không phải vậy!”

      Sau đó, sự việc này là một đề tài sâu sắc để quán chiếu và học hỏi, không phải chỉ cho môn sinh thời đó mà câu chuyện Nồi-Cơm-Khổng-Tử vẫn là bài học quý giá đến ngày nay.

      Người đệ tử ưu tú đó lại mệnh yểu, sớm rời thầy, xa bạn mà về cõi vĩnh hằng!

      Ai có thể cảm thông hết nỗi bi thương trong lòng thầy, ở giây phút tiễn đưa vĩnh biệt đệ tử! Có lẽ phút giây đó tình nghĩa thầy trò đã vượt qua ranh giới của đời-thường, mới khiến những giây tơ, tưởng như vô tri mà bật lên cung bậc cực kỳ rúng động.

      Tiếng khóc nghĩa tình đó lặng thầm mà chảy dài tới thời Xuân Thu Chiến Quốc, cho nhân gian lại được trân quý cái đẹp toàn bích của Tình-Bạn-Tri-Âm.

      “Bá Nha-Tử Kỳ” trở thành cụm từ chung, khi ai đó muốn nói đến tình tri kỷ.

       Bá Nha làm quan ở nước Tần, tới chức Thượng Đại Phu.

      Tử Kỳ là kẻ tiều phu đốn củi nuôi cha mẹ già, gần núi Mã Yên, ven sông Hán Dương.

      Một lần đi sứ, Bá Nha cùng đoàn tùy tùng qua tới nơi này. Nhằm đêm trăng sáng, phong cảnh hữu tình, Bá Nha truyền thuộc hạ dừng thuyền ven sông, pha trà, đốt hương trầm rồi nâng cây đàn quý lên, so giây, nắn phím. Và bao rung cảm của một tâm hồn nghệ sỹ quyện vào cung tơ …

Giòng cảm xúc đang rạt rào bỗng bất ngờ bặt tiếng.
Đàn bỗng đứt giây.
Trăng bỗng lặn.

     Ai? Ai đang nghe lén tiếng đàn này? Chỉ có người nghe lén mới khiến đàn đứt giây! Bá Nha tin như thế. Và lạ thay, từ trên bờ, một người bước ra khỏi bụi lau, rồi lên tiếng:

     -Kẻ tiều phu đốn củi về muộn, đi ngang qua đây, nghe được tiếng đàn khiến chân không thể bước tiếp.

     Bá Nha nghe vậy, khó ngăn được lòng mà không hỏi:

     -Hỡi kẻ tiều phu quê mùa, nghe tiếng đàn mà không bước tiếp được, vậy có biết ta đang khảy khúc đàn gì không?

     Bá Nha kinh ngạc khi Tử Kỳ từ tốn trả lời:

     -Thưa đại nhân, đó là khúc đàn Khổng-Vọng-Vi, là tiếng khóc của Đức Khổng Tử khi tiễn biệt đệ tử Nhan Hồi. Tiếng khóc đó khi chuyển vào tiếng đàn thì được lồng trong bốn câu:

“Khá tiếc Nhan Hồi, yểu mạng vong
Dạy người tư tưởng, tóc như sương
Đàn, bầu, ngõ hẹp, vui cùng đạo ….” (*)
Đại nhân dạo tới đây thì đàn đứt giây. Câu thứ tư là:
… Lưu mãi danh hiền với kỷ cương” (*)
Tình nghĩa thầy trò – Tình bạn tri âm  qua khúc đàn “Khổng Vọng Vi”-2

     Chỉ thế thôi. Chỉ cần trao đổi chừng đó thôi mà sức mạnh vô hình của tình tri kỷ đã phá vỡ tan ranh giới giữa địa vị, giầu sang, danh vọng và vô danh, nghèo đói, quê mùa …

     Với cây đàn quý, Bá Nha đã từng gảy những tiết tấu cô đơn:

“Tri thức mãn thiên hạ
Tri âm năng kỷ nhân”
Thiên hạ biết bao người
Tri âm nào có mấy!

     Vậy mà, ở phút giây bất ngờ nhất, họ đã được gặp nhau, được có nhau là tri âm, tri kỷ, được thọ hưởng niềm hạnh phúc không gì mua được vì tình này không phải món hàng, không ai rao bán!

     Kẻ tiều phu đó, nào phải quê mùa, mà là một trí sỹ, sống ẩn dật đốn củi vì còn phải phụng dưỡng cha mẹ già.

     Người ra làm quan nước Tần đó, nào phải ham danh lợi, mà vì tâm nguyện làm sứ giả kết nối giao tình với quê hương là nước Sở.

     Họ là hai nửa mảnh đời của nhau mà trong mênh mông trời đất, phải có ngày gặp được nhau để kết nghĩa anh em.

     Khi chia tay, họ hẹn ngày tái ngộ là mùa thu năm sau, cũng nơi này, dưới chân núi Mã Yên.

     Nhưng khi Bá Nha trở lại thì Tử Kỳ chỉ còn là một nấm mồ xanh cỏ!

     Ôi, tiếng khóc Đức Khổng Tử tiễn biệt đệ tử, với tiếng khóc Bá Nha vĩnh biệt bạn tri âm là những giòng-lệ-khô. Nước mắt này chảy ngược vào tim chứ không òa vỡ được cùng sông, cùng suối.

     Bá Nha quỳ bên mộ Tử Kỳ, nâng cây đàn Dao Cầm ngang trán, cất tiếng thảm thiết:

Dao Cầm đập nát, đau lòng phượng
Đàn vắng Tử Kỳ, đàn với ai?
Gió Xuân khắp mặt, bao bè bạn
Muốn kiếm tri âm, ôi khó thay!” (*)
Dứt lời, Bá Nha giơ đàn lên cao, rồi đập mạnh vào vách núi.
Đàn vỡ tan từng mảnh!

    Ôi! Đời nay, Tình Nghĩa Thầy Trò – Tình Bạn Tri Âm còn có là bao, mà làn gió thoảng trong không gian dường như vẫn vời vợi âm thanh cô quạnh “Tri thức mãn thiên hạ, Tri âm năng kỷ nhân!” …

TN Huệ Trân

(Tào-Khê tịnh thất – Nghe lá chuyển mùa)

(*) Sưu tầm


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/05/2021(Xem: 7674)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4814)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6258)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5398)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12268)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5470)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
15/05/2021(Xem: 5051)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5204)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4556)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4232)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]