Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tự Hào Là Con Của Phật Với Nền Tảng Đạo Hiếu Cao Vời

29/08/202008:22(Xem: 7368)
Tự Hào Là Con Của Phật Với Nền Tảng Đạo Hiếu Cao Vời

TỰ HÀO LÀ CON CỦA PHẬT
VỚI NỀN TẢNG ĐẠO HIẾU CAO VỜI

            Trên lộ trình tu học, tìm hiểu Phật pháp, và tự đặt mình vào cương vị một người con Phật, đôi khi sự tự hào không chỉ hỗ trợ tinh thần vững tiến mà còn giúp thêm cho ý chí hanh thông, vượt qua nhiều chướng duyên, trong lý tưởng mình đã chọn. Trong thời đại bùng nổ thông tin đa chiều như hiện nay, kiến thức và sự tự hào ấy được chắp thêm nhiều đôi cánh thêm bay cao, bay xa.

                Đến với Phật đạo trong truyền thống của gia đình, không bằng những nhân duyên ngoại cảnh đưa đầy. Đôi khi ngoảnh lại, bằng những kiến thức được dung nạp trong quá trình tiếp cận và tu học, niềm tự hào như được nhân lên gấp bội , ít nhất qua lăng kính Phật giáo là một tôn giáo, gia đình và mình đã chọn không sai, không lỗi đạo với quê hương và đạo pháp. Rất nhiều điều như thế mà gia đình, bản thân và các bạn hữu chung quanh đều cảm nhận được như thế qua từng bài học, từng sự kiện xã hội nhận thức được. Không phải ngẫu nhiên mà giới nghiên cứu lịch sử Phật giáo hay nhắc đến câu nói của nhà bác học vật lý Albert Einstein ( 1879 – 1955 ) «   Nếu có một tôn giáo đáp ứng được những nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không đòi hỏi phải xét lại mình để cập nhật với những khám phá gần đây của khoa học. Phật giáo không cần từ bỏ quan điểm của mình để đi theo khoa học, vì nó bao gồm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học »( If there is any rehigion that would cope with modem scientific Scientific needs,it would be Buddhism. Buddhism riqires no revisiontokeep it up to date withrecent scientific fidings. Buddhism needs nosurrender its view to science, because it embraces science as well as goes beyond science) – nguồn :”Quan điểm của Albert Einstein về Đạo Phật- tân vật lý và vũ trụ luận”- Chương trình “Mỗi ngày một cuốn sách” của VTV1.

Và, như chúng ta đã biết và đã thấy. Từ trong lịch sử hai ngàn năm có mặt trên mãnh đất này, từ trong nếp sống cộng đồng, quan điểm sống và để sống; cho đến từng câu nói, câu ca dao của dân gian.v..v… Phật giáo đã ghi đậm dấu ấn , tồn tại như nào . Những thành quả đó Phật giáo không tự “sáng tác “ ra để tự ca ngợi (giới bình dân thì xác đáng hơn khi chỉ định : tự sướng! ) hay để chứng minh sự có mặt và đồng hành với dân tộc; mà tự nơi cuộc sống ấy phản hồi những dư âm đẹp dành riêng cho Phật giáo. Nhìn chung quanh dễ thấy ngay người ta đã chật vật, xoay sở trăm chiều để đổi mới, để chỉnh sửa, để bổ sung v..v… cho phù hợp với cuộc sống, cho phù hợp với xã hội văn minh để không phải mang tai tiếng sai trái với đà phát triển của thời đại khoa học vũ trụ; mới thấy giá trị chân lý bất di bất dịch của Phật giáo tuyệt vời như thế nào.

           Với quyển sách nhỏ bỏ túi “ Để trở thành một Phật tử”, chỉ với 60 câu hỏi và đáp ngắn gọn, tác giả- cố Hòa thượng Thích Trí Thủ ( 1909 – 1984 ) đã có nói đến điều này rất ý nhị nhưng sâu sắc qua câu hỏi đáp số 7 và số 8 như sau :

Hỏi :làm lành lánh dữ lẫn những điều mà bất luận tôn giáo hay học thuyết nào cũng dạy, đâu có riêng gì Phật giáo?

Đáp: Vâng, đúng thế, Nhưng nói là một việc, còn có thực hành đúng như lời nói được hay không, lại là một việc khác. Đó là chưa nói đếm việc làm lành, lánh dữ ấy có hợp lý hay không, vì nếu người đế xướng lên một lý thuyết mà chưa phải là một đấng giác ngộ chân lý thì lý thuyết ấy khó mà hoàn toàn được.

Hỏi: bằng chứng đâu để biết lý thuyết đúng và thực hành cũng đúng như lý thuyết?

Đáp :Cứ xem đời sống lịch sử của vị Tổ sáng lập Tôn giáo và lịch sử truyền bá của Tôn giáo ấy thì biết.

            Trong kho tàng Tam Tạng Kinh Điển với vô vàn những bài học, những lời dạy của Đức Phật, nói theo ngôn ngữ của y thuật, tất cả những vấn đề đưa ra luôn có đầy đủ yếu tố của một Y Vương, lập trình vững chắc, chỉ định rõ ràng; Khám bệnhĐịnh bệnh và phương pháp chữa bệnh. Lấy bài học đầu tiên của những bước chân hoằng hóa đầu tiên của Đức Phật là Tứ Diệu Đế, Khổ đế - Tập đế - Diệt đếĐạo đế. Đây là bài học tiêu biểu nhất của nhận định vừa nêu, để Phật giáo bước lên trên và ra khỏi thói thường của sự ỷ lại phép mầu đơn giản và cầu xin tiêu cực, trong khi đó lại không để lại bài học khả dĩ nào cho chính người bệnh.

Chỉ riêng vấn đề Hiếu đạo thôi. Một chữ Hiếu thôi, đức Phật cũng tốn khá nhiều phương tiện và tùy thuận mỗi nghiệp duyên mà giàng giải cho thế nhân, cho các cõi trời – người tận tường. tại sao phải Hiếu, và phải báo Hiếu như thế nào? Chữ Hiếu trong Phật giáo không phải là một khẩu hiệu nghèo nàn , đứng biệt lập để biểu hiện đó là chân lý “cho có” để làm an tâm tín đồ . Chữ Hiếu trong Phật giáo còn là một chỉ định mang tính tôn xưng cao cả , tương đồng và phù hợp với đạo lý Phương Đông ( Tam Giáo Đồng Nguyên ) để thế nhân không ngần ngại xác định : Đạo Phật là đạo Hiếu ! Điều đó là hẳn nhiên. Không hẳn nhiên sao được khi quả vị cao nhất là Tâm Phật cũng được đem ra ví sánh với công đức Mẹ Cha ( Tâm Hiếu là Tâm Phật, hạnh Hiếu là hạnh Phật - Gặp thời không có Phật, thờ Cha Mẹ tức thờ Phật – Kinh Đại Tập). Thậm chí trong một hoàn cảnh bức bối, không lối thoát nào đó, người ta cũng có thể nương theo câu hát cổ nhạc “ Tu đâu cho bằng tu nhà/ Thờ Cha Kính mẹ hơn là đi tu” của cố soạn giả Viễn Châu ( trong bài “Tu là Cội Phúc “). Nhân tiện đây xin được khẳng định lại , đó là câu hát của cố soạn giã Viễn Châu chứ không phải ca dao hay truyền khẩu như nhiều người vẫn nhầm tưởng, vì như đã thưa, câu ca đó chỉ có thể ứng dụng cho một hoàn cảnh nhân vật trong bài hát, chứ thật ra nội hàm vẫn chưa đúng lắm và còn khoảng cách rất xa với Phật pháp. Phật giáo vượt lên trên lăng kính tôn giáo một cách cao cả nhưng rất trần gian như thế mà chắc rằng chưa thấy có ở một tôn giáo khác.

Ảnh 1-Trời Đao Lợi 2
Ảnh 2 -Thuyết pháp_cho_vua_tinh_phan_ đẹp
Ảnh 3 - mahapajapati-gotami - ma ha ba Xà ba đề

                   Khi Đức Phật nói về chữ Hiếu, ắt hẳn cuộc đời Ngài cũng như trong vô lượng tiên kiếp hẳn đã thể hiện nét tiểu biểu đó qua rất nhiều hình tướng, trạng thái. Ngay trong kiếp sinh tử luân hồi cuối cùng làm con của Thánh Mẫu Ma Da, Ngài vẫn với tâm từ đại Hiếu ấy hành xử rất đúng mực. Khi thành đạo quả vô thượng rồi Ngài vẫn mang tâm từ đại Hiếu ấy vào cõi trời Đao Lợi để thuyết giảng cho Thánh Mẫu hầu làm tròn một bổn phận của thế gian (Phật thăng Đao Lợi vị mẫu thuyết pháp kinh )( Ảnh 1- 2 ) . Hay như Ngài đã khởi thân vượt ngàn dặm xa, trở về hoàng cung thăm lại phụ thân, và khi phụ thân qua đời Ngài đẽ ghé một bờ vai giải thoát của mình khiêng chiếc quan tài đến nơi trà tỳ rất tròn đạo nghĩa ( Ảnh 3 ). Không chỉ bấy nhiêu đó thôi mà còn một hình ảnh xúc động khác nữa khi Ngài cũng vì tâm Từ Đại Hiếu ấy chấp nhận cho nền chánh pháp sớm mạt độ trước 500 năm để thu nhận bà Di Mẫu Kiều Đàm, người đã từng bồng ẳm, nuôi nấng Thái Tử tất Đạt Đa khi mới vừa 7 ngày tuổi cho đến lúc lên lưng ngựa kiền Trắc, cùng Xa Nặc lướt qua mấy nẻo bụi hồng tím cầu chân lý, cùng hàng trăm vị khác vào tăng đoàn tu theo Ngài. Chữ Hiếu đối với Đức Phật to lớn đến dường ấy . Tâm Từ Đại Hiếu đó còn được thể hiện qua hàng đại đệ tử, đồ chúng của Ngài lúc còn hiện bày sinh tướng hay khi đã nhập diệt cho đến tận ngày nay.

Khi đức Phật nói về chữ Hiếu. Như đã nói, đó không phải là khẩu hiệu mỏng manh chỉ để trang điểm làm an lòng tín đồ, mà là một phương thức sống động và còn là trách nhiệm của một người đệ tử Phật. Đối với người sơ cơ hay kẻ mới học Phật sẽ dễ dàng tìm thấy trong Kinh Vu Lan Bồn hay Kinh Báo Hiếu. Qua đó, Đức Phật đã dạy cho chúng ta biết thế nào là Hiếu, làm sao phải Báo Hiếu, rất rõ ràng. Với những ai có điều kiện tìm hiểu sâu hơn thì ngoài hai bộ kinh thông dụng ấy còn có nhiều bộ kinh khác đức Phật nói về chữ Hiếu trong suốt hơn 45 thuyết hóa của Ngài. Đại để đó là các bộ kinh như : Kinh Đại tập, Kinh Nhẫn Nhục, Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Kinh Tập Bảo Tạng, Kinh Tăng Chi II A, Kinh Trường A Hàm, Kinh Trung Bộ, Kinh Tương Ưng, Chi Bộ Kinh, Kinh Suttanipata, Chính 2/601, Cảnh Sách, Hạnh Phúc Kinh, Vạn 35/154].v…v…Có những bài kinh với nhiều câu nói rất hay được nhiều người nhắc đến như :

  • Phạm Thiên, Này các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha.Các đạo sư ngày xưa. Này các tỳ Kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha. Đáng được cúng dường, này các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha. (Tăng Chi II A )
  • Hờ trời đất quỷ thần, không bằng có hiếu với cha mẹ, vì cha mẹ là vị thần minh cao nhất trong các thần minh ( Kinh Tứ Thập Nhị Chương ).
  • Làm con đới với cha mẹ, khi đem vật dụng cho cha mẹ, dù nhỏ đi nữa thì được phước vô lượng. Khi làm điều bất thiện đối với cha mẹ, dù chỉ một chút thì tội cũng vô lượng.(Kinh Bảo Tạng ).
  • Phụng dưỡng cha mẹ là vận may tối thượng ( hạnh Phúc Kinh )
  • Các thầy tỳ Kheo, có hai vị Phật sống đang sống trong nhà các ngươi, đó là cha và mẹ (Kinh Vạn 35/154A ).
  • Các người nghĩ như thế nào, này các Tỳ Kheo? Cái gì là nhiều hơn? Sữa mẹ mà các ngươi đã uống, trong khi các ngươi lưu chuyển luân hồi trong một thời gian dài, hay là nước trong bốn biển ? Cái này nhiều hơn, này các Tỳ Kheo, tức là sữa mẹ các ngươi đã uống trong khi các ngươi lưu chuyển luân hồi trong một thời gian dài, chớ không phải nước trong bốn biển ( Kinh Trường A Hàm ).
  • Người nào theo thường pháp/ Nuôi dưỡng mẹ và cha/ Chính do công hạnh này/ Nhờ vậy, bậc Hiền Thánh/Trong đời này tán thán/ Sau khi chết được sanh/Hưởng an lạc chư thiên ( Kinh Tương Ưng).

               Trên đây chì là tiêu biểu vài câu trích dẫn để bổ sung cho chủ đề bài viết trong rất nhiều đề tài về chữ Hiếu Đức Phật thuyết giảng trước sau trong quá trình thuyết giáo. Nhưng cũng sẽ không thừa khi xin được trích dẫn câu kinh nói về chữ Hiếu được xem là kinh điển nhất khi tìm hiểu Phật pháp, để nhân đó người xin nói thêm một chi tiết liên quan :

Điều thiện tối cao không gì hơn Hiếu

Điều ác tột cùng không gì hơn bất Hiếu

( Kinh Nhẫn Nhục )
14 điều răn của Phật

          Trong phần cuối bài viết này , người viết trích dẫn câu kinh nổi tiếng trên vì chợt nhớ đến một chi tiết về những cái «  Nhất » trong « mười bốn điều răn của Phật » ( tạm gọi là tấm liễn ) ( Ảnh 4 ) -do cố Hòa thượng Kim Cương Tử ( 1914 – 2001 ) sưu tập và được in, phát hành rộng rải trong các nhà sách cuối thập niên 80. Người viết đã tìm mua được trong nhà sách Fahasa ở đường Nguyễn Huệ Quận 1 năm 1988. Nói đến thời gian phát hành ai cũng hiểu và thông cảm được cho từ «  điều răn của Phật » được dùng làm tựa đề. Và câu thứ 6 trong 14 câu ấy chính là «  Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu ». Trong giai đoạn vừa mở cửa, nhìn thấy những gì liên qua đến Phật giáo ai cũng rất vui mừng và bỏ qua những sai sót nhỏ. Nhưng sự việc sẽ không nhỏ chút nào nếu đặt vào thời gian hiện tại khi chúng ta đã có đầy đủ các ba bệ và hệ thống tổ chức Giáo Hội PGVN chặt chẻ. Khi đó, tấm liễn 14 điều Răn Của Phật này gây sốt thật sự và ai cũng muốn tìm mua cho bằng được để treo ở trong nhà mình vì ý nghĩa quá súc tích và sâu sắc. Tất nhiên lòng tự hào của mình cũng hân hoan theo không kém và luôn thầm cảm ơn, ngưỡng mộ chư vị đã có công làm ra bảng chữ như vậy. Khi cơn sốt đang ở cao trào thì có vài ý kiến của các vị từng đi Ấn, đi Đài hay đi Trung nói rằng các vị cũng từng thấy một vài chùa bên các xứ đó có treo những tấm bảng có nội dung tương tự và cho đó là của Trung Quốc ! Rất lạ lá ít nghe ai nói rằng 14 câu « nhất » ấy được chư vị tôn túc uyên thâm Phật học, rút ra từ các lời kinh Phật dạy và đúc kết thành những câu nói mang tính xác quyết, quan trọng nhất của đời người cho hậu thế soi chung . Thí dụ như câu số 6 đã trích «  Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu » phải chăng được các vị chiếc xuất từ trong Kinh Nhẫn Nhục « Điều ác tột cùng không gì hơn bất hiếu » Hoặc từ trong kinh Báo Hiếu – «  Trong năm đại tội định ra/ Bất hiếu thứ nhất thật là trọng thay »? Còn lại những câu khác chắc chắn rằng cũng sẽ không nằm ngoài kinh tạng Phật giáo mà với điều kiện và khả năng của người viết còn hạn chế, chưa thể sưu tầm ra hết được. Nhưng xã hội ngày nay, không kể người có hay không tu học cũng đều rất cần những thông tin như tấm liễn. Những điều tự hào đáng tự hào vì tất cả những gì Phật giáo có và cống hiến cho xã hội là rất thật, rất hữu ích, không cần gượng ép hay áp lực để tạo ra, nhất là cố tạo ra cái mình không có để tồn tại .



Mùa Vu Lan 2564 – 2020

DƯƠNG KINH THÀNH


***

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/02/2021(Xem: 6107)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4457)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9399)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5922)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7271)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5917)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
28/01/2021(Xem: 6511)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 6540)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 5672)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
27/01/2021(Xem: 4020)
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu. Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và đối trị.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]