Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bốn câu Kệ xuất thần

25/08/202018:35(Xem: 6463)
Bốn câu Kệ xuất thần

Bốn câu Kệ xuất thần

Bon-Cau-Ke-Xuat-Than-000

Lịch sử thật là muôn hình vạn trạng, các Sử gia lại càng biến hóa khôn lường. Họ cứ như một tiểu thuyết gia tài tình, uốn nắn nhân vật trong truyện với ngòi bút tinh xảo đầy quyền uy của mình thành một nhân vật như ý muốn: "Muốn sống được sống, muốn chết được chết và đặc biệt đang từ một Nữ Hoàng Đế mộ Đạo Phật trở thành một người phụ nữ dâm đãng, tàn ác giết người không thương tiếc".

Nhân vật tôi muốn viết dưới đây là vị Nữ Hoàng Đế của triều đại Đường bên Trung Quốc: Võ Tắc Thiên, người đàn bà lừng danh kim cổ có một không hai trong lịch sử loài người. 



Câu chuyện bắt đầu vào những buổi sáng, sau khi thức dậy, vệ sinh cá nhân xong đến màn "lắc cổ vẫy tay" để đưa đến việc khai kinh kệ cho mục lạy Hồng Danh Sám Hối. Khi bốn câu Kệ xuất thần được xướng lên:



Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp.
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì.
Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa.

Nghĩa là:
Pháp vi diệu rất sâu vô lượng.
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu.
Nay con nghe được xin trì tụng.
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

Bon Cau Ke Xuat-than-1

4 câu Kệ bằng Hán Văn.



Tôi quán tưởng ngay đến nhân vật Võ Tắc Thiên, người đã tán dương công đức Kinh Hoa Nghiêm, khi đọc được bản dịch của Bộ Đại Thừa Hoa Nghiêm Kinh do mình xuống lệnh cho các Pháp Sư lừng danh dịch thuật từ tiếng Phạn ra Hán văn. Không biết khả năng hiểu Kinh của Bà đến đâu, nhưng bốn câu thủ bút của Bà hạ xuống đã theo các Phật tử của hàng Đại thừa thuộc môn phái Bắc Tông đến nay đã hơn 12 thế kỷ mà vẫn chưa có câu khai kinh Kệ nào thay thế được. 



Cứ mỗi lần xướng lên bốn câu Kệ của Bà, tôi lại chấn động cả toàn thân, nhiều khi xúc động muốn rơi cả nước mắt. Có lẽ sau 12 thế kỷ vẫn có người "cảm" được ngôn từ của Bà.



Nhưng hình ảnh của Võ Tắc Thiên trong trí óc tôi hoàn toàn bị các sách báo, phim ảnh, phim bộ làm mê mờ. Nhắc đến vị Nữ Hoàng Đế này tôi đều phê cho một chữ "Nhất", đẹp nhất, thông minh nhất, quyền uy nhất, giỏi nhất, dâm đãng nhất và tàn ác nhất. Nếu tôi tỏ ý ngưỡng mộ Bà, muốn được như Bà, thiên hạ sẽ nhìn tôi với ánh mắt chế diễu cho hai cá tính được nêu ra sau cùng!??



Nhưng trí tuệ của tôi mách bảo, đừng cả tin những gì thiên hạ gán cho Bà, phải đi tìm sự thật rồi suy luận kỹ càng mới có cái nhìn đúng đắn về con người kỳ diệu ấy! 

. Nếu nói Bà hoang dâm quá độ e có hơi hoang tưởng, vì thời gian làm Quý Phi và Hoàng Hậu, ai dám cả gan làm chuyện tày trời. Đến khi Bà lên ngôi Hoàng Đế năm 690, với quyền uy tối thượng của "Con Trời", tha hồ thực hiện các "giấc mộng ái tình", nhưng rất tiếc tuổi xuân đã đi qua. Năm đăng quang Bà đã tròn 65 tuổi, cho dù y dược của xứ "thâm cung bí sử" Trung Hoa có thần dược đến đâu cũng không thể níu kéo tuổi xuân của một lão Bà Bà đã gần 80 tuổi. Ấy thế mà cả một tuổi thơ của tôi đã tin xoáy trán! Cũng bởi vì thích xem phim cổ trang lịch sử mà thôi! 



Trong suốt 15 năm trị vì trên ngôi Thiên Tử, sử sách chẳng chịu ghi chép nhiều đến các công lao to lớn của Bà đối với triều đại được mệnh danh là Đại Đường, mà cứ bôi nhọ Bà bằng những mối tình man rợ với nam nhân. 



.  Chuyện Bà giết người thẳng tay, hễ ai âm mưu tạo phản đòi lật đổ Bà, chỉ có nước bay đầu và bị tru di tam tộc. Nghe thật dã man, nhưng đây là luật lệ ngàn xưa của vua chúa thời phong kiến. Họ không muốn con cháu kẻ tử tội sau này sẽ trả thù nên "Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc" không chừa một người nào. Bà Hoàng Đế này chỉ làm như các Tiên Đế xưa đã làm để bảo vệ ngôi báu.



Hai cái "Nhất" sau cùng của Bà đã được tôi tẩy rửa phần nào. Dĩ nhiên "Không có lửa làm sao có khói", Bà cũng dính líu chút ít chứ không nặng nề vùi dập ngàn cân như các Sử gia đã viết về Bà.

Tại sao lại xảy ra cớ sự như thế? 



Vì Đạo Nho mang tư tưởng trọng nam khinh nữ, các đấng nam nhi "đầu đội trời, chân đạp đất", đâu thể nào chịu nổi cảnh phải cúi đầu tung hô vạn tuế một nữ nhi mà họ cho là kẻ "Với không qua đầu ngọn cỏ". Thật đáng ghét! 

Lại thêm cái Đạo Tiên, các tiên ông thấy Bà sùng Đạo Phật coi nhẹ Đạo Tiên, xem Bà như cái gai trước mắt. Họ công ty với nhau viết lịch sử về cuộc đời Bà, bôi nhọ hình ảnh một Nữ Hoàng Đế mộ Đạo Phật. 



Từ năm 14 tuổi nàng tiểu thư xinh đẹp họ Võ đã được tuyển vào cung làm vợ vua Lý Thế Dân tức Đường Thái Tông với tên gọi Võ Mỵ Nương. Nhưng đất bằng dậy sóng khi quan Lý Thuần Phong, người chịu trách nhiệm về âm dương thiên văn của thời đại nhà Đường, cứ nằng nặc đòi vua phải giết tất cả họ Võ trong cung để tìm cho ra "Nữ chủ Võ Thị" sẽ soán ngôi nhà Đường trong tương lai. Mặc dù yêu quý nàng Phi tài sắc và dũng cảm này nhưng vua Lý Thế Dân vẫn tìm cách tránh xa nàng. Nhưng định mệnh đã an bài cho cuộc gặp gỡ trong cung cấm của Thái tử Lý Trị với nàng để trở thành mối lương duyên "tình cha duyên con" thâu tóm giang sơn nhà Đường vào tay họ Võ. 

Khi Đường Thái Tông băng hà, các Phi tần không con đều được đưa vào Chùa bắt đi tu cho hết kiếp, họ không được lấy chồng khác, nhất là nàng Võ Mỵ Nương. Nhưng lỡ mang trong tay Thiên mệnh, nàng vẫn được vua Đường Cao Tông tức Lý Trị yêu quý năm xưa vào tận chùa Cảm Nghiệp lôi ra đưa về cung phong làm Hoàng Hậu sau khi nàng hạ sanh Hoàng tử.



Tài trị nước của Võ Hoàng Hậu có phần lấn lướt chồng, nên vua cũng hoan hỷ nhường Hậu tất cả mọi việc triều chính. Từ từ Bà thâu tóm hết quyền uy, cùng Chồng trị vì thiên hạ trong thời gian khá dài 23 năm, cho đến khi Đường Cao Tông băng hà. Bà cũng lập con trai Lý Hiển lên ngôi tức Đường Trung Tôn, nhưng chỉ được hai tháng thì chê bất tài và tạo phản để đày đi Phòng Châu biệt xứ năm 684. 

Cậu út Lý Đán lên ngôi tức Đường Duệ Tông, làm vua bù nhìn được 6 năm nhờ ngoan ngoãn nghe lời Thái Hậu. 

Đến năm 690, khi Sư Pháp Minh dâng 4 cuốn Đại Vân Kinh ca tụng Bà là "Di Lặc xuống trần" và các quan đại thần theo phe cánh của Bà dâng tấu mời Bà lên ngôi cửu trùng. Rồi thuận theo ý trời, ý người và cả ý của Hoàng Đế đương triều Đường Duệ Tông, Bà mới lên ngôi Hoàng Đế với tên gọi Võ Tắc Thiên, lập ra đời Võ Chu vào năm 690 lúc Bà vừa tròn 65 tuổi. 

Đến năm Bà 80 tuổi thì vô thường ập đến, ngã bệnh, già yếu không thể lâm triều lo việc nước. Nhờ nghe lời can gián của Tể tướng Địch Nhân Kiệt, một nhân tài đã đưa ra nhiều sách lược, Bà thoái vị nhường ngôi cho con trai lớn Lý Hiển tức Đường Trung Tông. Sau 15 năm cai trị nhà Võ Chu đã trả lại giang sơn cho nhà Đường vào năm 705.



Công lao trị vì thiên hạ của Bà được Sử gia Lâm Ngữ Đường tóm tắt các điểm như sau:

.  Mở mang lãnh thổ Trung Quốc, vươn sang Trung Á, chinh phục bán đảo Triều Tiên. 

.  Phát triển kinh tế, xã hội, duy trì sự ổn định trong nước, biết xử dụng nhân tài. 

.  Khuyến khích phát triển Phật giáo.

 

Điểm sau cùng này chứng tỏ Bà là người rất sùng Đạo Phật. Từ 14 tuổi lúc chưa vào cung, Bà đã cùng mẹ đi Chùa và bảo trợ cho việc khắc tượng Phật trong núi đá. Lúc có quyền uy trong tay Bà đã ủng hộ việc dịch Tam Tạng Kinh Điển. Vào năm 695, cho đón Pháp Sư Nghĩa Tịnh từ Ấn Độ về, đã dịch được 4 trăm quyển kinh, trong đó có Bộ Đại Thừa Hoa Nghiêm Kinh làm chất xúc tác cho 4 câu Kệ xuất thần của Bà. Ngoài ra còn có Pháp Sư Nan Đà, Pháp Minh và nhiều vị khác... trong hội đồng dịch thuật Kinh Tạng thời của Bà.

 

Nhắc đến việc dịch thuật Tam Tạng Kinh Điển, phải kể đến chuyện Đường Tăng đi thỉnh kinh bên Tây Trúc. Đây là câu chuyện có thật với việc thật người thật, không hư cấu như tác phẩm Tây Du Ký của tác giả Ngô Thừa Ân.

Nhân vật Đường Tăng chính là nhà Sư Trần Huyền Trang, bạn kết nghĩa với vua Đường Thái Tông Lý Thế Dân. Người mang trọng trách sang xứ Ấn Độ để thỉnh kinh sách của Phật về. Kể từ thời Đường Thái Tông đến Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên, công việc phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển từ tiếng Phạn ra tiếng Hán rất cực thịnh, biết bao Bộ Kinh Đại Thừa đã được truyền tụng đến hôm nay. Và các Cao Tăng của Việt Nam cũng đã miệt mài dịch ra tiếng Việt gần trọn bộ các Đại Tạng Kinh. 

Trước thời nhà Đường khoảng 200 năm, cũng có vị Cưu Ma La Thập dịch thuật kinh điển, nhưng không rầm rộ và đầy đủ như dưới thời nhà Đường. 



Trở lại với các say mê về việc khắc tượng Phật trên đá của Bà từ thuở xa xưa. Tại khu vực hang đá Long Môn, tượng Phật Đại Nhật - Tỳ-lô-giá-na (Vairocana) cao 17,14 mét ở chùa Phụng Tiên, được tự hào gọi là tượng Võ Tắc Thiên, một "Mona Lisa Đông Phương" hay Thần Vệ Nữ Đông Phương, hay "Bà Mẹ Trung Hoa" với một nghệ thuật điêu khắc tuyệt mỹ. Dù đứng ở bất cứ vị trí nào trong sân Phụng Tiên Tự rộng mênh mông, cũng thấy pho tượng nhìn mình điểm một nụ cười bí ẩn.  

Bon-Cau-Ke-Xuat-Than-001

Phật Đại Nhật (Tỳ-Lô-Giá-Na Vairocana) ở Chùa Phụng Tiên.

Vào thế kỷ thứ 7, trong khi Âu Châu vẫn còn đang sống trong thời kỳ đen tối, đế chế La Mã vừa sụp đổ. Trung Quốc lúc bấy giờ đã bước vào thời kỳ hoàng kim dưới triều đại nhà Đường (618 - 907).

Trong thời gian Bà chấp chính, xã hội an bình, nhân dân an cư lạc nghiệp, hẳn là một chứng tích to lớn khiến bất cứ ai cũng phải công nhận. Quả thật trong thời gian Bà cai trị, đã giúp đỡ kẻ yếu chống lại cường hào, phát triển khoa cử, khuyến khích trồng dâu nuôi tằm và đạt được thành tựu to lớn.

Trong cuốn “Giản biên lịch sử Trung Quốc“ của Sử gia Phạm Văn Lan có viết câu: “Võ Tắc Thiên là một chính trị gia vừa mạnh mẽ, vừa tháo vát“.

Bên cạnh những huyền thoại về Bà, từ những say mê quyền chức đến những bí ẩn chưa rõ thực hư như: đã dám ra tay sát hại con ruột, hay các đại thần Bà không vừa ý!



Muốn luận công hay luận tội phải phân tích sự việc cho thật rõ ràng mới đưa đến kết luận, khi đã tỏ tường tôi cũng chỉ dám nói câu: "Ai muốn nghĩ sao thì nghĩ" như thâm ý của Bà khi chết cho dựng "Bia vô tự", một tấm bia cao 7 thước không khắc chữ. Phía đầu tấm đá đó chỉ khắc 8 đầu rồng quấn vào nhau. Hai bên thân bia khắc hai con đường, trên con đường đó khắc một con tuấn mã và một con sư tử đực thần thái uy nghiêm. Thuật điêu khắc tinh vi như vậy thật hiếm có trong lịch sử.



Ý đồ lập bia không chữ để người đời sau bình phẩm mình, chứ không tự mình đánh giá. Không khắc chữ của người đời Đường, nhưng người đời sau như nhà Tống, nhà Minh lại khắc lên 42 đoạn đề tự. Gồm có 32 đoạn ở phía Nam, 10 đoạn phía Bắc, bắt đầu từ đời Tống, kết thúc vào đời Minh, có chữ của đàn ông, có chữ của phụ nữ. Trong đó có một bài thơ thất ngôn tứ cú đời Minh như sau:

Càn Lăng tùng bách tao binh tiễn,
Mãn dã ngưu dương xuân thảo tề.
Duy hữu Càn nhân hoài cựu đức,
Niên niên mạch phạn tự chiêu nghi.

Tạm dịch:
Tùng bách Lăng Càn gặp binh lửa,
Bò dê đầy đồng cỏ xuân đủ.
Chỉ có người Càn ôm đức cũ,
Hàng năm cơm gạo tế rõ ràng.


Thi nhân hoài niệm Võ Tắc Thiên vô số kể, Quách Mạc Nhược, nhà văn học, nhà sử học, người ngưỡng mộ văn hóa Trung Quốc đương đại, khi du lịch qua Càn Lăng, đã từng đề thơ thất ngôn bát tuyệt ca ngợi Bà:



Khuy nhiên một tự bi ưu tại,
Lục thập ngũ tân vị lộ thiên.
Quán miện lý đường văn vật thịnh,
Quyền hoành nữ đế trí năng toàn.
Hoàng sào cấu tại lăng vô dạng,
Thuật đức kỷ tàn thế bất truyền.
Đãi đáo u cung trùng khải nhật,
Hoàn kỳ phiên án tục tân biên.
Tạm dịch:
Sừng sững không chữ bia vẫn còn,
Sáu mươi lăm khách đứng lộ thiên.
Áo mão Lý Đường văn vật thịnh,
Nữ Đế cân nhắc trí năng toàn.
Trứng vàng nơi cổng lăng không bệnh,
Kể đức ghi công không truyền lại.
Đợi đến ngày cung sâu lại mở,
Còn kỳ hủy án tiếp tục ghi.



Tấm bia không chữ này cũng mang theo nhiều huyền thoại khó quên, kẻ cho rằng bà Hoàng Đế tự cho mình công cao không thể nói hết, cũng không thể dùng văn tự biểu đạt được. Kẻ thực tế hơn, cho ông con Trung Tôn Lý Hoàng Đế vào trường hợp khó xử, không biết nên dùng từ nào xưng hô với Võ Tắc Thiên, Hoàng Đế hay Mẫu Hậu? 

Các Lăng mộ thuộc tỉnh Quảng Châu, nơi được gọi là “Thung lũng các vị Vua“ của Trung Quốc, phải kể đến Càn Lăng, nơi yên giấc của hai vị Hoàng Đế: Võ Tắc Thiên và Đường Cao Tông. Khám phá lăng mộ này giống như đang lạc vào thế giới của kinh đô cũ, một Trường An thu nhỏ. Có khoảng 103 tượng đá lớn với 61 bức tượng bị mất đầu với nhiều nhát chém đầy bí ẩn!!!

Bon-Cau-Ke-Xuat-Than-002

Bia Vô Tự tại Càn Lăng tỉnh Thiểm Tây.

Bon-Cau-Ke-Xuat-Than-003

Dọc đường vào Càn Lăng.

Bon-Cau-Ke-Xuat-Than-004

Những bức tượng đá bị mất đầu đầy bí ẩn.

Ngoài ra người viết xin kể một câu chuyện bên lề có liên quan đến danh hiệu của Ngài Quán Thế Âm trong thời đại nhà Đường. Nhiều lúc đọc sách báo kinh điển, thấy thiên hạ gọi Ngài khi thì Quán Âm, lúc thời Quán Thế Âm. Vậy tên nào là đúng? Xin thưa, cả hai đều đúng!

Nguyên do là từ thời Đường Thái Tông, thiên hạ sợ phạm húy gọi tên tục của Vua Lý Thế Dân, nên "Mẹ hiền Quán Thế Âm" của chúng ta phải mất đi một chữ. Cũng giống như thời vua chúa nhà Nguyễn, có một Bà Phi được sủng ái tên Hoa, thế là mọi loài hoa phải đổi thành "Huê", kể cả thành ngữ "Nước chảy huê trôi".



Trước khi chấm dứt bài viết, tôi muốn bộc lộ đôi lời nhận xét về nhân vật Nữ Hoàng Đế độc nhất vô nhị của Trung Hoa, người mà tôi mỗi ngày đều ngưỡng mộ qua 4 câu Kệ xuất thần của Bà. 



Theo cái nhìn của tôi, một người có tâm tu, có tâm nghĩ đến Phật Pháp và hoằng dương Chánh Pháp làm nhiều Phật sự như Bà, ắt sẽ có tâm sáng suốt, nhẹ nhàng thanh tịnh, chứ không bị tâm ái dục chi phối. Nếu còn là người phàm nhiều lúc Bà cũng bị các con "Ma Ái" mê hoặc, nhưng anh chàng Ngự Lâm Quân "Chánh Niệm" của Bà luôn túc trực bên cạnh để bảo vệ, giúp Bà hoàn thành các tâm nguyện lợi ích cho người, cho đời và cho Tam Bảo. 



Về chuyện người đời gán cho Bà danh hiệu "Vị Nữ Hoàng Đế tàn ác nhất trong lịch sử loài người", cần phải xem xét lại!??? Có thấy dân chúng Trung Hoa thời bấy giờ ca thán một lời nào về Bà đâu? Họ làm thơ khen ngợi không tiếc lời thì có! Cứ đến Càn Lăng đọc 42 đề tự khắc trên Bia Vô Tự của người đời sau ca tụng Bà sẽ rõ. 

Còn thời đại hiện tiền của Trung Hoa bây giờ, được mệnh danh là "Xã hội chủ nghĩa", vì nước vì dân như thế nào? Các lãnh tụ từ đời này sang đời khác có thể đem hai chữ "tàn ác" ra so sánh được với Bà không? Họ còn là "Tổ Sư" hơn ai hết! Dám đem cả con Vi-rút Vũ Hán ra giết cả thế giới, vừa nhanh lại vừa gọn mà tay vẫn sạch như không. Thế mới tài tình! 

Và tin tức hiện tại cho biết, họ còn dùng mìn phá nổ các tượng Phật bằng đá khắc trong hang đá Long Môn, muốn xóa tan một kỳ quan thế giới về văn hóa nghệ thuật điêu khắc của Phật Giáo. Các Sử gia chân chính ở nơi đâu???

Hoa Lan - Thiện Giới. 

Mùa hè 2020.

Nguồn tham khảo:

. https://www.youtube.com/watch?v=a9EEHvw5Ggc&t=2026s Nữ Hoàng Đế Võ Tắc Thiên | TT Thích Nguyên Tạng giảng

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/11/2015(Xem: 12439)
Từ ngã ba trước trụ sở thị xã Ninh Hòa, rẻ về tay trái đi theo quốc lộ 26 hướng về Ninh Phụng, đi khoảng 3km đến quán Bảy Búa, rẻ phải theo hương lộ Ninh Phụng - Ninh Thân đi khoảng 500m nửa là đến chùa cổ tich Linh Quang (thôn Xuân Hòa, xã Ninh Phụng, Ninh Hòa).
05/11/2015(Xem: 8249)
Chuyến tàu chở chúng tôi từ Paris về ga Saint Foy La Grande đúng không sai một phút. Xuống tàu tìm mãi không thấy ai đón. Chúng tôi ra ngoài cửa ga đợi nửa tiếng vẫn không thấy ai. Thế là bắt đầu sốt ruột. Tìm lại trong người và hành lý thì hoàn toàn không có điện thoại của Làng Mai, không có địa chỉ. Nghĩ lại thấy mình thật là không cẩn thận, không chu đáo. Biết đi đâu bây giờ. Từ ngày rời Việt Nam tôi không hề dùng điện thoại, chỉ check email và vào facebook up tin một chút vào buổi tối mới mà thôi.
05/11/2015(Xem: 14268)
Chúng con, một nhóm PT mới dịch xong cuốn quotations "All You Need Is Kindfulness " của Đại Sư Ajahn Brahm. “Kindfulness” là danh từ mới do Ajahn Brahm đặt ra để chỉ “mindful” nghĩa là “sati”, tỉnh thức (hay thường được gọi là chánh niệm) với “kindness”- tâm từ ái. Ajahn luôn luôn nhấn mạnh rằng chỉ chánh niệm không thôi chưa đủ mà chúng ta cần phải thêm vào đó cái "nguyên tố kỳ diệu của tâm từ ái".
31/10/2015(Xem: 14132)
rang mạng Buddhaline.net, một trang mạng Phật giáo rất uy tín vừa phổ biến lá thư số 139 (tháng 10/2015) với chủ đề "Thiền Định", nhằm đánh dấu 15 năm thành lập trang mạng này, và đồng thời kêu gọi những người Phật tử khắp nơi hãy hưởng ứng chương trình "24 giờ thiền định cho Địa cầu" ("24 heures de méditation pour la Terre") sắp được tổ chức trên toàn thế giới.
26/10/2015(Xem: 10737)
Trung tuần tháng10 tới đây, tại La Residence Hue Hotel & Spa (số 5 – Lê Lợi Huế), bà Tạ Thị Ngọc Thảo - một người được biết đến không chỉ với tư cách của một doanh nhân bản lĩnh của thị trường bất động sản mà còn là một cây bút sắc sảo nhưng không kém phần trìu mến trong câu chữ - sẽ ra mắt độc giả cuốn “Thư Chủ gửi Tớ” của chị. Đây cũng là những góc nhìn dưới nhiều khía cạnh của một doanh nhân am hiểu và tự tin, không chỉ trong lĩnh vực sở trường của mình.
24/10/2015(Xem: 8817)
Ajahn Sundara là một ni sư người Pháp, sinh năm 1946. Khi còn trẻ bà học vũ cổ điển và hiện đại, và đã trở thành một vũ công nổi tiếng, đồng thời cũng là giáo sư vũ hiện đại. Thế nhưng bà luôn suy tư và khắc khoải về những gì khác sâu xa hơn. Năm 1978 sau khi tham dự một buổi nói chuyện của nhà sư Ajahn Sumedho về cuộc sống của một nhà sư dưới chiếc áo cà sa, bà đã xúc động mạnh, và cảm thấy dường như một con đường mới vừa mở ra cho mình.
22/10/2015(Xem: 11682)
Khi vừa thức giấc mỗi ngày Bạn ơi hãy nghĩ thân này hôm nay Thật là may mắn lắm thay Vẫn còn tỉnh dậy với đầy niềm vui.
22/10/2015(Xem: 10489)
Ni Sư Ayya Khema sinh năm 1923, cha mẹ theo đạo Do Thái. Thời thơ ấu bà sống ở Bá Linh. Sau một thời gian nghiên cứu, thực hành thiền Phật giáo, Ni sư bắt đầu truyền dạy Thiền khắp thế giới. Năm 1978, Ni sư thành lập tu viện Theravada Wat Buddha Dhamma, nằm trong một khu rừng, gần Sydney, Úc. Ni sư cũng thành lập Trung Tâm Nữ Phật tử Quốc Tế (International Buddhist Women’s Center) và Đảo Parappuduwa dành cho các Ni (Parappuduwa Nuns Island), tại Tích Lan.
21/10/2015(Xem: 11629)
Trong bài giảng dưới đây, nhà sư Ajahn Sumedho, giải thích thật khúc triết và minh bạch thế nào là khổ đau và sự Giác Ngộ qua các thể dạng vận hành tinh tế của tâm thức, Cách giải thích vô cùng sâu sắc và trong sáng đó cho thấy ông là một vị thiền sư ngoại hạng. Thật cũng không lấy làm lạ bởi vì ông là đệ tử của nhà sư Thái Lan Ajahn Chah (1918-1922), một trong số các vị thiền sư lỗi lạc nhất của thế kỷ XX.
18/10/2015(Xem: 7833)
Nhật báo Figaro ngày 14 tháng 10, 2015 có một bài báo tố cáo một lò sát sinh tại một quận lỵ ở Pháp vi phạm các quy tắc y tế về việc giết mổ súc vật. Độc giả có thể xem hình ảnh vô cùng hung bạo và độc ác của lò sát sinh này trên YouTube. Đối với những người Phật giáo thì sau khi xem cũng nên liên tưởng đến những miếng ăn ngon của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]