Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nepal Bangladesh Xây dựng Tu viện Phật giáo tại Lâm Tỳ Ni

21/08/202007:52(Xem: 5514)
Nepal Bangladesh Xây dựng Tu viện Phật giáo tại Lâm Tỳ Ni

Nepal Bangladesh Xây dựng Tu viện Phật giáo tại Lâm Tỳ Ni

(Bangladesh to Build Buddhist Monastery in Lumbini, Nepal)

Mô phỏng phác thảo tổng thể tu viện Phật giáo

Mô phỏng phác thảo tổng thể tu viện Phật giáo. Ảnh: facebook.com

Vào hôm thứ Hai, ngày 27 tháng 7 năm 2020, một cuộc họp trực tuyến (online) của nội các do bà Sheikh Hasina, Thủ tướng Chính phủ Bangladesh chủ trì, đã thông qua dự thảo thỏa thuận giữa Tổ chức Lumbini Development Trust of Nepal và Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Bangladesh về việc xây dựng tu viện Phật giáo Bangladesh. Tu viện Phật giáo được đề xuất sẽ được xây dựng tại Lâm Tỳ Ni, nơi Đản sinh của Đức Phật lịch sử. Việc xây dựng được bắt đầu với lợi ích cá nhân, và kế hoạch của Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa Nhân dân Bangladesh tại Nepal, Mashfee Binte Shams, và Bí thư thứ nhất, Asit Baran Sarkar.

Sau cuộc họp, Bộ trưởng Nội các Khandaker Anwarul Hồi giáo cho biết: “Vấn đề đến với chúng tôi từ các bộ về vấn đề tôn giáo. Khu vực thuộc Tổ chức Lumbini Development Trust of Nepal được kết nối sâu sắc với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Những Phật tử từ các quốc gia khác nhau, có mối liên hệ chặt chẽ với nơi này. Một lô đất đã được phân bổ, sau khi Bangladesh này tỏ quan tâm đến việc xây dựng một tu viện Phật giáo và những công trình phụ. Tất cả đã được thông qua Đại sứ quán Bangldesh”. (bdnews24.com)

Bộ trưởng Nội các Khandaker Anwarul Hồi giáo lưu ý rằng, Tổ chức Lumbini Development Trust of Nepal đã đồng ý và phê duyệt tất cả các hoạt động, bao gồm cả thiết kế, thông qua Bộ Ngoại giao Bangladesh, với chi xây dựng ước tính 512 triệu taka Bangladesh (6 triệu USD). Ông nói thêm rằng, vì đây là một thỏa thuận với một quốc gia khác, vấn đề đã được đưa ra trước khi Nội các Chính phủ phê duyệt.

Trang tin Atish Dipankar Buddhist news đã đăng trên Facebook đã đăng tải trên một video về dự kiến thiết kế cho tu viện Phật giáo, nói rằng thiết kế đã được hoàn thiện theo mô hình của Khu phế tích đạo Phật Paharpur (Somapura Mahavihara), quận Naogaon, Tây bắc Bangladesh, một phần của di sản Thế giới của Bangladsh. Trưởng Kiến trúc sư Asifur Rahman Bhuiyan và nhà thiết kế của Sở Kiến trúc Bangladesh, đã thiết kế tu viện Phật giáo này.

Trung tâm Phật giáo Somapura Mahavihara (সোমপুর মহাবিহার) nằm ở Paharpur, Badalgachhi Upazila, Naogaon, Tây Bắc Bangladesh, một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất Nam Á, thành tựu nghệ thuật độc đáo, ảnh hưởng đến nhiều trung tâm Phật giáo lớn khác trên thế giới. Đây cũng là địa điểm khảo cổ học quan trọng nhất tại Bangladesh được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào năm 1985.

Lịch sử ở đây từng là một trong 5 địa điểm tự viện phật giáo lớn nhất ở Bengal và Magadha cổ đại (cùng với Vikramashila, Nalanda, Odantapurā, và Jaggadala). Trung tâm Phật giáo Somapura Mahavihara được vị anh minh Hoàng đế Pala Dharmapala (khoảng 770-810) kiến tạo. Ông là người kế vị Devapala và đã cho xây dựng sau khi chinh phục được vùng Varendra.

Trung tâm Phật giáo Somapura Mahavihara là một trung tâm giáo dục Phật giáo với các cơ sở dân cư bao gồm 177 phòng, 45 phòng phía bắc và 44 phòng phía nam, đông và tây. Nó được xây dựng xung quanh một sân rộng rãi với một bảo tháp hình chữ thập ở trung tâm, có diện tích 11 héc ta, bao gồm một tòa nhà tứ giác hơn 274 mét. Theo ghi chép cho biết, Trung tâm Phật giáo Somapura Mahavihara được sự tôn kính của nhân dân Tây Tạng vào thế kủ 9-12, rất thu hút nhiều vị tăng sĩ Phật giáo Tây Tạng đã đến đây tu học. Ngài Tôn giả Atisha Dipankara Srijnana (982–1054) đã từng ở Trung tâm Phật giáo Somapura Mahavihara trong nhiều năm.

Thánh địa Phật giáo Lâm Tỳ Ni, một địa điểm hành hương Phật giáo nổi tiếng nằm tại huyện Rupandehi, Tỉnh số 5 của Nepal. Đây là nơi mà truyền thống Phật giáo, Hoàng hậu Maya (Mada) đã sinh ra Tất-đạt-đa Cồ-đàm vào năm 563 trước Kỷ nguyên Tây lịch. Tất-đạt-đa là người đã giác ngộ vào khoảng năm 528 trước Kỷ nguyên Tây lịch nguyên suy tôn là Đức Phật hay Phật Thích Ca, được coi là người đã khai sinh ra Phật giáo. Lâm Tỳ Ni cũng là một trong những nơi quan trọng gắn liền với đời sống của Đức Phật.

Lâm Tỳ Ni có một số ngôi chùa cũ bao gồm chùa Maya Devi và nhiều ngôi chùa mới được tài trợ xây dựng bởi các tổ chức Phật giáo khắp nơi trên thế giới đã được hoàn thành hoặc vẫn đang được xây dựng. Nhiều di tích, tu viện Phật giáo, bảo tàng, viện nghiên cứu di tích cũng nằm trong thánh địa Phật giáo này. Ngoài ra còn có Puskarini hay Ao Thánh là nơi hoàng hậu Maya thực hiện nghi thức ngâm mình trước khi sinh Đức Phật và cũng là nơi ngài tắm đầu tiên. Một địa điểm đáng chú ý khác là phần còn lại của cung điện Ca Tỳ La Vệ. Năm 1997, Lâm Tỳ Ni đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới.

Trong những năm gần đây, Chính phủ Bangladesh đã khởi động một số dự án để giới thiệu di sản Phật giáo tại một quốc gia có chủ quyền nằm ở vùng Nam Á.

Năm 2015, phối hợp với Tổ chức Du lịch Thế giới (World Tourism Organization, UNWTO), Bangladesh lần đầu tiên tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế với chủ đề “Developing Sustainable and Inclusive Buddhist Heritage and Pilgrimage Circuits in South Asia’s Buddhist Heartland” (Phát triển Di sản Phật giáo Bền vững, toàn diện và các mạch hành hương Trung tâm Phật giáo Nam Á) tại Dhaka, miền trung Bangladesh. Sự kiện này là một đối thoại cởi mở vì sự phát triển bền vững, và thúc đẩy các tuyến mạch du lịch xuyên biên giới ở Nam Á và khu vực Châu Á Thái Bình Dương.

Quốc kỳ của Nepal và Bangladesh.

Quốc kỳ của Nepal và Bangladesh. Ảnh: myrepublica.com

Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền Bangladesh tại Nepal, bà H.E. Mashfee Binte Shams đã tham gia vào hoạt động ngoại giao Phật giáo để thúc đẩy quan hệ giữa Bangladesh và Nepal. Thông qua việc xây dựng một cơ sở tự viện Phật giáo tại Nepal, nhiều người tin rằng di sản Phật giáo của Bangladesh có thể được liên kết hơn nữa với Nepal, từ đó cung cấp nền tảng vững chắc, để khai thác các mối quan hệ mới với các quốc gia láng giềng trong khu vực.

bà Sheikh Hasina, Thủ tướng Chính phủ Bangladesh chủ trì cuộc họp trực tuyến

Thích Vân Phong biên tập

(nguồn: 佛門網)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4928)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5050)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4422)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4083)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4679)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4142)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3575)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6851)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6927)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5023)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]