Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đọc Sách "Chớ Quên Mình Là Nước" của Văn Công Tuấn

02/08/202009:12(Xem: 6296)
Đọc Sách "Chớ Quên Mình Là Nước" của Văn Công Tuấn

ĐỌC SÁCH "CHỚ QUÊN MÌNH LÀ NƯỚC"

CỦA VĂN CÔNG TUẤN

 

Trần Văn Chánh

 Chớ-Quên-Mình-Là-Nước

 

Trong khoảng chục ngày nay, các báo Việt Nam đưa tin toàn chuyện dịch bệnh CoViD-19 , vì nó đang đe dọa trở lại sau một thời gian 3 tháng tạm thời im ắng. Ngay lúc này, giở ra đọc lại sách Chớ quên mình là nước - Tạp văn, khảo luận về nước và môi trường của Văn Công Tuấn mà tôi đã được tác giả gởi tặng từ một tháng trước, ý thức về tầm quan trọng đối với môi trường sống của tôi càng trở nên đậm nét.

Nói chung người Việt Nam chúng ta mảng lo chạy theo cuộc sống thực tế trước mắt hàng ngày nên  vẫn còn khá hờ hững trước các vấn đề môi trường, vì “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”, trong khi tình trạng khủng hoảng môi trường giờ đây cũng đã trở thành một thực tế không thể ngó lơ, và đại dịch CoViD-19  có lẽ phần nào nhắc nhở sự tỉnh thức, bởi sự xuất hiện virut Corona (SARS-Co V-2) cũng không ra ngoài lý do môi trường, nhưng người ta có vẻ sợ hơn những thứ khác vì chúng có thể đe dọa trực tiếp và tức khắc mạng sống con người, so với hiện tượng biến đổi khí hậu tuy cũng nguy hiểm nhưng tác động chậm hơn. Cuốn Chớ quên mình là nước xuất bản trong lúc này tại Việt Nam vì thế có vẻ như rất thích hợp, góp thêm phần cảnh giác/ báo động trước một vấn đề vô cùng hệ trọng đối với con người thời hiện đại.

Trong lời tựa cho lần tái bản sách này tại Việt Nam (NXB Hồng Đức, Quý III-2020), tác giả (một kỹ sư chuyên viên kỹ thuật y khoađịnh cư làm việc ở Đức) cũng khơi mào câu chuyện bằng thời sự CoViD-19 , cho biết “khi đi làm việc tại khu cấp cứu cách ly dành cho bệnh nhân CoViD-19  tại Uniklinikum UKSH Kiel, tôi càng có dịp suy nghĩ thêm về mối tương quan giữa con người và thiên nhiên… Người ta biết rằng, khi môi trường tự nhiên bị hủy hoại, khi trật tự vũ trụ bị đảo lộn thì thiên nhiên phải tự ra tay thiết lập trở lại sự cân bằng. Kết quả có thể là những thiên tai khủng khiếp như hạn hán, lũ lụt, sóng thần, động đất… hoặc những cơn đại dịch chết người hàng loạt… Trong khi đó, chúng ta không ngừng gây ô nhiễm môi trường, chúng ta phung phí nước bất kể nhiều vùng trên trái đất đang ngày càng khô cằn, đồng loại ta đang chết khát…” (tr. 8-9).

Ở nước ta từ nhiều năm nay, nạn thiếu nước, ô nhiễm nguồn nước, xâm nhập mặn… đã ngày càng trở nên rõ rệtvà phổ biến, ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt hàng ngày và hoạt động sản xuất của người dân. Thiếu nước nghĩ xa hơn cũng là thiếu lương thực, có thể gây nên nạn đói trong tương lai khi dân số ngày một gia tăng vì nước chiếm một tỉ lệ quan trọng tuyệt đối trong sản xuất nông nghiệp.

Trong bàiviết thứ hai, “Buồn ơi - gặm nhắm thêm chi”, tác giả nêu lên nguy cơ biến đổi đổi khí hậu (làm nước biển dâng…), giới thiệu sơ qua phong trào kêu gọi hãy cứu lấy môi trường của lớp trẻ toàn thế giới từ tháng 8.2018, mà có lúc chính tác giả, tuy thuộc lớp già, cũng đã tham gia biểu tình chung với 7.000 học sinh và sinh viên người Đức với tấm biểu ngữ khôi hài mà cười… ra nước mắt: “Hãy chuẩn bị mặc quần tắm vào đi, biển ngập tràn khắp rồi!” (tr. 27)

Theo tác giả, nước là trung tâm của mọi nguyên tố (element) trên trái đất. Không có nước là không có sự sống. Cho đến nay không có bất cứ vật thể gì tồn tại được nếu thiếu nước. “Nước hiện diện trong mọi vật thể quanh ta mà ta thực sự ít quan tâm đến nó. Nước là yếu tố đầu tiên cho sự sống… Để nhấn mạnh ý nghĩa này, Liên Hiệp Quốc từ năm 2003 đã chọn ngày 22 tháng 3 là Ngày Nước Thế Giới” (tr. 53). Trong bài  “Khô khan chuyện Nước”, tác giả tái khẳng định: “Không ai chối cãi được, thiếu nước là vấn nạn lớn nhất của chúng ta hiện nay” (tr. 57). Tiếp theo, nêu lên yêu cầu bức thiết phải tiết kiệm nước tối đa trong mỗi hành vi sinh hoạt, và đề nghị nêu gương theo bài học thoát hạn của Do Thái, đề cao một nền văn hóa tôn trọng nước: “Nói tóm lại, cái viễn cảnh thiếu nước ngọt để sử dụng của chúng ta trên địa cầu này là tất yếu, chắc chắn sẽ xảy ra. Nhưng qua kinh nghiệm Do Thái, ta thấy cũng có thể có một sinh lộ” (tr. 68).

Bài “Bà Ny-lông, Ông Mủ nhựa” cảnh báo nguy cơ rác thải bao bì bằng nhựa làm ô nhiễm nguồn nước từ sông ra tới biển: “Hiện nay mỗi năm có khoảng 8 tấn rác mủ nhựa ny-lông đổ vào biển”. Rồi cá voi (thuộc lớp Thú) cũng bị tiêu diệt dần, các loài chim trời cá nước khác cũng vậy (xem bài “Dưới biển cá thôi bơi, trên trời chim hết lượn”, (tr. 142). Một nguy cơ cho toàn thể nhân loại, “Cá tuyệt chủng thì ngư dân cũng tuyệt chủng. Tôi và anh chị rồi cũng sẽ đi vào đường tuyệt chủng khi cây cỏ và sinh vật chung quanh chúng ta tuyệt chủng” (tr. 150).

Số bài còn lại hầu hết là những tản mạn việc đời, biểu lộ những nỗi suy tư trăn trở, thường cũng gắn liền với yếu tố “nước”, phong cách viết thong thả, đầy tính văn nghệ. Bài nào cũng có dẫn thơ, ca dao, danh ngôn của các bậc hiền triết, và nhất là điển tích, ngụ ngôn lấy từ trong các kinh sách Phật giáo, nên dễ đọc, đọc mà không cảm thấy quá nặng nề, lại thêm được bồi bổ nhiều loại kiến thức liên quan tôn giáo, triết học...

            Tác giả chọn “nước” làm đầu đề triển khai cho toàn tác phẩm không chỉ vì lý do đơn thuần khoa học, mà còn vì những cảm thức cá nhân liên quan đến cái chất liệu quan trọng này đã có trong ông từ buổi ấu thơ sống trong môi trường thiên nhiên lành mạnh đầy kỷ niệm đẹp của quê hương mến yêu, từ khi nước chưa bị thiếu và chim, cá chưa bị chết do môi trường bị hủy hoại như bây giờ. Cho nên cuốn sách được cấu trúc không hoàn toàn như một công trình biên khảo khoa học khô khan, mà lồng vào 16 bài viết ngắn dài, tác giả đưa ra những lời tâm sự, “cũng chỉ vì một ước mong duy nhất” là để nhắc nhở mọi người cần biết trân quý trái đất này của chúng ta: “Chúng ta cũng nên biết giữ gìn những giọt nước của đất, vốn phủ đầy hai phần ba địa cầu. Đất này, nước này là những dấu tích còn lưu lại của đời trước, là nơi an nghỉ của tổ tiên. Đất và nước không thể là sở hữu của riêng bất cứ một ai. Xin đừng nói ngây thơ là ai đó vì có tên trong hồ sơ bất động sản nên là kẻ sở hữu. Nếu có chăng những kẻ sở hữu thì kẻ ấy chính là con cháu chúng ta ở các thế hệ sau… Phải biết chăm sóc đất, phải tử tế với nước…” (trích “Lời thưa”, tr.20-21).

Ở đây, khi nói “nước” đi liền với “đất”, nhiều chỗ trong sách, tôi nghi rằng tác giả Văn Công Tuấn có ý dùng thuật chơi chữ một cách tế nhị, với hàm ý yêu nước, bảo vệ nguồn nước cũng là yêu quê hương đất nước, và phải ra sức bảo vệ nó. Đọc tới bài “Cụ Phan gọi trà” (tr. 103), có trích dẫn câu thơ trong bài  “Gọi trà” của Phan Bội Châu “Trà ơi còn nước là vinh hạnh”, ta càng thấy rõ thâm ý này của tác giả, với lời bình luận: “Cụ thương nước thương nòi, nhưng bấy giờ phải lâm tình cảnh bị giam lỏng nên cụ cứ phải ‘khát nước hoài’. Nước hiểu theo đầy đủ tất cả nghĩa. Một lối chơi chữ quá tài hoa: vừa là đất nước vừa là dòng nước mà cũng là dòng đời lênh đênh của cụ. Cái nào cũng quý và cái nào cũng đang lâm nạn. Mình chỉ nhận ra khi không còn có nữa” (tr. 104).

 

     31.7.2020

 

---

Chi tiết về tác phẩm:

 

Chớ-Quên-Mình-Là-Nước

CHỚ QUÊN MÌNH LÀ NƯỚC

Tạp văn - Khảo luận về nước và môi trường

 

Tác giả: Văn Công Tuấn

Lời tựa: Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Lời bạt: Nguyễn Minh Tiến

 

Phát hành ở Việt Nam:

Nhà xuất bản Hồng Đức, Quý III-2020 (Công ty Văn hóa Hương Trang liên kết phát hành). Giá: 75.000 VNĐ

Số ISBN: 978-604-9948-47-3

 

Phát hành ở hải ngoại: mạng Amazon theo đường link rút gọn https://pgvn.org/pg_5604hw

Giá 14,99 US$

Nhà xuất bản Liên Phật Hội (Hoa Kỳ), 2019.

Số ISBN-13: 978-1-6875-2509-3

Số ISBN-10: 1-6875-2509-9

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/09/2014(Xem: 9700)
Hương đêm lan tỏa quanh mẹ khi mẹ bước ra khỏi lan can lầu. Có mùi thơm dìu dịu của dạ lý hương từ bên dưới thoảng nhẹ và mùi sương đẫm trên những thân lá trường sinh. Từ trên đỉnh chùa núi ở phía nam thành phố, từng hồi đại hòng chung trầm ấm rền rền gióng lên, qua không gian tĩnh lặng của sáng sớm mùa hẹ, âm ba của nó như những lượn sóng trầm chảy vào thời gian và thế giới bình yên của thành phố biển. Vậy là đã ba giờ rưỡi sáng.
08/09/2014(Xem: 7542)
Người, vật, chim muông, hoa lá, cỏ cây, lâu đài, phố thị, làng mạc... đều nương tựa trên mặt đất. Cũng vậy, chúng sanh hữu tình, các bậc trí tuệ, chư thánh nhơn, đức Phật... cũng do 10 nghiệp lành mà có sắc thân, tướng mạo, y báo, chánh báo sai khác, dị đồng... Tất cả phải nương tựa nơi 10 nghiệp lành vậy. Mười nghiệp lành không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả. Mười nghiệp lành thường quyết định duyên lành, làm cho thông minh sáng láng, học hành thành đạt, sự nghiệp hanh thông, gia đình ấm êm và cả trí tuệ thông hiểu con đường xuất ly ba cõi nữa.
08/09/2014(Xem: 9981)
Đức Phật từng dạy: “Trên đời có hai hạng người đáng quý. Thứ nhất, người chưa hề phạm tội và thứ hai là người lỡ phạm tội nhưng hết lòng sám hối, nguyện không tái phạm.” Kinh sách ghi lại nhiều bài sám với những hình thức ngắn, dài, đại cương hoặc chi tiết, để mỗi hành giả tùy căn cơ, nhu cầu và phương tiện mà phát nguyện sám hối. Ở đây, chỉ xin được chia sẻ đôi giòng, sau hai tuần lễ đại chúng đạo tràng chùa Phật Tổ hành trì, trong khóa tu sẽ liên tục một tháng, tụng lạy bộ“Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp Lương Hoàng Sám”
06/09/2014(Xem: 13024)
-Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ. “ Câu thơ “ Hận tình mang xuống tuyền đài chưa tan” cho thấy dù đã chết xuống Âm Phủ rồi mà mối hận tình vẫn chưa nguôi và có thể ôm sang kiếp khác- kiếp lai sinh. Rồi thì bao ưu tư khắc khoải của hiện tại, bao lo âu, hân hoan, hoang mang lo sợ của tương lai. Tất cả đều chất chứa trong tạng thức, trong tim óc, trong tâm, trong não bộ giống như một người thấy tin tức, hình ảnh gì trên Internet hay Diễn Đàn cũng đọc rồi “download” rồi “save” vào bộ nhớ khiến một lúc nào đó máy hư, tức “tẩu hỏa nhật ma” rồi hóa điên.
06/09/2014(Xem: 12661)
Cụ bà Phúc Thái sinh năm 1923 tại Thái Bình, di cư vào nam 1935, lập gia đình và có 7 người con, hiện cụ có 16 người cháu và 6 chắc. Hiện cụ đã 91 tuổi đang tịnh dưỡng thiền tập và sống khỏe tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ
05/09/2014(Xem: 8329)
Cho dù dòng đời cứ mãi ngược xuôi, nhưng con người lớn lên ai cũng thầm mong và cố gắng để có một ngày tươi đẹp nhất trong đời, một ngày hãnh diện với bà con xóm giềng, bạn bè thân thuộc. Đó là ngày hạnh phúc bước lên xe hoa.
04/09/2014(Xem: 7252)
Nghĩ cũng đã hơn năm năm rồi gần như Mẹ không đi chùa. Tuổi đã trên chín mươi, vai gầy vóc hạc, tuy vẫn còn minh mẫn hằng ngày an vui với pháp Phật, bầu bạn với thi ca, nhưng hai chân Mẹ đã yếu đi rất nhiều, Mẹ chỉ luẩn quẩn trong căn phòng nhỏ, ra vào với những bước ngắn trong phạm vi ngôi từ đường rêu phong cổ kính…
03/09/2014(Xem: 7017)
Cho dù ngày nay với tốc độ chuyển biến của xã hội như thế nào đi nữa, con người có lao vút ào ạt vào quỷ đạo khát vọng nhiệt cuồng, thậm chí đánh mất phẩm chất nhân tính bởi những dục tính thế nào đi nữa ! Thì lời dạy của Đức Phật, của những bậc giác ngộ, những bậc thức giả vẫn luôn được thắp sáng mỗi lúc, mọi thời và mọi nơi trong cuộc sinh tồn của con người và nhiều sinh loại khác.
03/09/2014(Xem: 8154)
Hạnh nguyện của chư Phật, Bồ-tát là đi vào cuộc đời để cứu độ chúng sinh. Vì thế, xưa kia Tôn giả A-nan sau khi giác ngộ liền phát nguyện mạnh mẽ: Đời đau khổ con thề vào trước, Dù gian nguy chí cả không sờn. Bồ-tát Địa Tạng cũng nguyện vào địa ngục cứu độ chúng sinh, nên ngài phát nguyện trước Đức Phật: “Khi nào trong địa ngục không còn chúng sinh thì con mới thành Phật.”
03/09/2014(Xem: 10132)
Hằng đêm, chúng ta thường tụng bài kệ khai kinh: Phật pháp rộng sâu khó nghĩ bàn Trăm ngàn ức kiếp khó tìm cầu Nay con thấy nghe xin trì tụng Nguyện rõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu. Nghĩa nhiệm mầu ấy nay được Hòa thượng Thánh Nghiêm trình bày rất ngắn gọn, súc tích nhưng rất dễ hiểu và dễ ứng dụng trong cuộc sống hằng ngày. Chúng con chưa có duyên tu, nhưng lại có may mắn được tiếp xúc và thực hành lời dạy đó. Mới nhận ra mình như có được những viên ngọc sáng trong bầu trời Phật pháp. Thật an lành và hạnh phúc biết bao khi chúng con được tiếp xúc với Pháp, với chư Hiền thánh Tăng để nhận rõ chân tâm và gieo trồng những hạt giống từ bi, trí huệ những hạt giống của tình thương yêu và sự hiểu biết đến muôn loài.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]