Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hạnh Khất Thực (Thích Như Điển)

30/06/202005:28(Xem: 9968)
Hạnh Khất Thực (Thích Như Điển)


HT Thich Nhu Dien 2020
Hạnh Khất Thực

Bài viết của HT Thích Như Điển
Diễn đọc: Cư Sĩ Diệu Danh
Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước




Xin giải thích ngay về ý nghĩa của 3 chữ trên. Hạnh có nghĩa là việc làm, là hạnh nguyện, là thực hành một bổn phận hay một trách nhiệm nào đó. Còn Khất có nghĩa là xin. Xin những gì người khác cho mình. Người cho được gọi là kẻ bố thí. Còn người nhận được gọi là khất sĩ. Thực nghĩa là đồ ăn, món ăn, cách ăn hay thực phẩm dùng để nuôi dưỡng thân tứ đại nầy.
Ngày xưa khi Phật còn tại thế, cứ mỗi sớm mai khi hừng đông vừa ló dạng là Ngài và cả Tăng Đoàn gồm hơn 1.000 người chia ra từng nhóm nhỏ, rồi thong thả đi vào xóm, vào chợ, vào nhà cư sĩ, vào nhà ngoại đạo, không phân biệt người giàu sang, kẻ bình dân hạ tiện, hoặc giả bất cứ giai cấp nào ở trong xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Đây là cái cớ, cái duyên để chư Tăng, Ni có cơ hội gần gũi, tiếp xúc với mọi người và cũng là dịp để người Tăng sĩ thực hiện tinh thần vô trụ, tinh thần bất chấp của một con người, thường thường hay xây dựng trên mỗi tự ngã của từng cá nhân.
Đức Phật, một bậc Thầy của Trời và Người; nhưng Ngài vẫn thể hiện hạnh khất thực. Vì lẽ, không phải Ngài chỉ đi xin ăn tầm thường hay bình thường như những người thiếu thốn miếng cơm manh áo, mà Ngài đi xin tấm lòng từ bi và xin tấm lòng vị tha của con người, để họ có cơ hội khai mở, để họ có nhân duyên gieo trồng căn lành cho chính họ; chứ không phải Ngài hay chư Tăng vì thiếu khả năng sản xuất, thiếu điều kiện sinh sống, mới đi ăn xin.
Có một lần vị Bà La Môn bảo rằng: „Sa Môn Cồ Đàm và những đệ tử của ông ta làm biếng, không có khả năng tạo ra vật thực để dùng; nên mới đi xin như thế“. Đức Phật, Ngài từ tốn trả lời rằng: „Ta và đệ tử của ta mỗi ngày vẫn đi cày xới ruộng tâm của mình đấy chứ! Sau một thời gian gieo hạt giống giới đức, ruộng ấy sẽ trổ hoa thơm và cuối cùng Tăng Đoàn sẽ gặt hái được những kết quả là giác ngộ và giải thoát“. Điều này cho chúng ta thấy rằng: Ngài và chúng đệ tử của Ngài không phải là những người lánh nặng tìm nhẹ, mà còn gia công tu tập, hành thiền nhiều hơn là những người làm ruộng bình thường nữa.
Khi thọ Tỳ Kheo hay Tỳ Kheo Ni, chúng ta hiểu ý nghĩa của những từ nầy là: Khất sĩ, bố ma và phá ác. Nghĩa là người xuất gia là kẻ khất sĩ. Bên dưới đi xin thức ăn đồ uống để nuôi sống tấm thân tứ đại nầy và bên trên mong đền được bốn ơn nặng của quốc gia, cha mẹ, Thầy Tổ và chúng sanh. Khi thực hành những hạnh nguyện ấy cần phải hàng phục ma quân từ bên trong như tham nhũng, chấp thủ và cả bên ngoài như sự lười biếng, sợ hãi v.v… Đây được gọi là bố ma. Khi đi khất thực hay lúc hành hạnh Tỳ Kheo có nghĩa là chính người Tăng sĩ ấy phải diệt trừ những niệm ác của tham, sân, si để giới định huệ được thăng hoa trong cuộc sống nội tâm của mình. Trong oai nghi tế hạnh của người xuất gia có cả một chương dạy rõ ràng về việc đi khất thực nầy.
Cho đến ngày hôm nay sau 2553 năm lịch sử các xứ Phật Giáo Nam Tông như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt v.v… chư Tăng vẫn còn thực hành hạnh khất thực mỗi ngày và quanh năm suốt tháng 365 ngày ấy vào buổi sáng tinh sương khi mọi sinh hoạt của phố thị hay làng xóm sắp bắt đầu. Những Tăng sĩ đi khất thực có thể đi chân trần, đôi khi cũng có nơi mang dép, thong thả đến trước từng cửa nhà, cửa tiệm của thí chủ; người ta cho, cúng cái gì thì mình nhận vật ấy. Nếu đứng chừng 5 phút, không có người mang đến cúng dường, ta cũng vẫn hoan hỷ ra đi. Khi đi đúng một con đường hay một xóm đã được quy định thì chư Tăng trở về lại chùa. Họ sẽ mang tất cả những vật thực ấy dâng lên trước bàn Phật rồi tụng kinh cúng dường Phật. Sau đó họ đem phần khất thực ấy chia làm 3 phần. Một phần để vị Tăng sĩ ấy dùng cho đến trưa trong ngày đó. Một phần cho người khác tại chùa hay người bịnh; một phần nữa bố thí cho chim muông hay những loài thú khác. Như vậy mỗi phần đi khất thực về, đều được chia thanh tịnh bằng bốn cách như trên.
Khi đạo Phật được truyền qua Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ nhất, chư Tăng ngoại quốc và chư Tăng Trung Quốc vẫn hành trì hạnh khất thực như thế. Nhưng vì thời tiết, khí hậu ở phương Bắc, không giống như phương Nam. Nghĩa là trời vào Đông ở phương Bắc tuyết rơi lạnh lẽo, sự sinh hoạt bị thu hẹp vào bên trong, không phô trương ra ngoài như các xứ Nam phương; nên chư Tăng chỉ đi khất thực vào mùa Xuân, Hạ và Thu; còn mùa Đông thì tự nấu nướng bên trong tự viện của mình. Từ bao đời nay bài thơ:
Nhứt bát thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Kỳ vi sanh tử sự
Thuyết pháp độ xuân thu.
Nghĩa:
Một bát, cơm ngàn nhà
Một thân, muôn dặm xa
Chỉ vì sự sanh tử
Thuyết pháp độ người qua.
Đây chính là hình ảnh đẹp nhất của người tu khi hóa duyên vô ngại tự tại như thế. Tài sản riêng của chư Tăng chỉ có 3 y và một bình bát. Chính bình bát ấy đã đi vào đời, đi khắp Đông, Tây, Nam, Bắc. Sự hiện diện của chư Tăng đã xoa dịu được phần nào nỗi khổ đau của trần thế. Đây là một bài pháp không lời, đã nói lên được tất cả hạnh nguyện của người Tăng sĩ cũng như những cư sĩ tại gia khi thực hành hạnh bố thí.

Có một lần Ngài A Nan đi khất thực và đến xin nước uống nơi một cô gái thuộc giai cấp Chiên Đà La. Nàng ta sợ và từ chối rằng: Con không dám cho nước Ngài. Vì Ngài thuộc giai cấp quý tộc; còn con thuộc giai cấp tôi tớ trong xã hội, làm sao dám gần Ngài”. Đoạn Ngài A Nan bảo: “Ta xin nước chứ có xin giai cấp của ngươi đâu!”. Chỉ một câu trả lời ngắn gọn của Ngài A Nan như thế, cho chúng ta thấy rằng: Đạo Phật là một đạo từ bi, không có giai cấp. Cho nên Đức Phật dạy rằng: “Không có sự phân biệt giữa giai cấp và Tôn giáo khi trong máu người cùng đỏ và nước mắt người cùng mặn”.
Đức Phật cũng đã dạy trong giới luật rất kỹ là chư Tăng chỉ đi khất thực vào buổi sáng và qua khỏi giờ ngọ không được đi. Lý do là trong thời Đức Phật còn tại thế có một vị Tỳ Kheo thân hình rất xấu xí, ông ta hay đi xin vào buổi tối để tránh sự dòm ngó của mọi người. Một hôm nọ đến nhà một nữ thí chủ để khất thực. Chẳng may lúc ấy sét đánh ngang trời. Vị thí chủ ấy thấy được nhan sắc dị hợm của vị Tỳ Kheo kia, trông giống như quỉ Dạ Xoa; nên nàng ta ngất xỉu và bị sẩy thai. Kể từ đó về sau, Đức Phật chế luật cho chư Tăng không được đi khất thực sau giờ ngọ.
Khi Phật Giáo được du nhập vào miền Bắc thuộc Đại Thừa Phật Giáo như Mông Cổ, Đại Hàn, Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Tây Tạng, Bhutan v.v… tuy chư Tăng, Ni không thực hành hạnh khất thực mỗi ngày như chư Tăng các xứ Nam Tông; nhưng trong khi cúng quá đường chư Tăng vẫn hành trì đúng như pháp khất thực trong luật dạy. Đầu tiên chư Tăng, Ni nâng bát cơm lên trán, kiết ấn cam lồ và tụng: Cúng dường thanh tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật … Đó là thể hiện sự tôn kính với chư Phật. Kế đó vị chủ lễ gắp bảy hạt cơm cho vào chén nhỏ đọc bài kệ như sau:
Pháp lực bất tư nghì
Từ bi vô chướng ngại
Thất liệp biến thập phương
Phổ thí châu sa giới
Án độ lợi ích tóa ha (3 lần)
Nghĩa:
Pháp lực khó nghĩ bàn
Từ bi không ngăn trở
Bảy hạt biến mười phương
Thí cho khắp mọi nơi
Án độ lợi ích tóa ha (3 lần)
Sau đó cho Thị Giả đem thức ăn, uống ấy ra bên ngoài sân và đọc bài kệ xuất sanh:
Đại Bàng kim súy điểu
Khoán giả quỷ thần chúng
La Sát quỷ tử mẫu
Cam Lồ tất sung mãn
Án mục lục lăng tóa ha (3 lần)
Nghĩa:
Đại Bàng chim cánh vàng
Cùng với loài quỷ thần
Mẹ con quỷ La Sát
Đượm nhuần ơn mưa dịu
Án mục lục lăng tóa ha (3 lần)
Sau khi Thị Giả tống thực xong, vị Chủ Sám xướng lễ và chư Tăng, Ni sớt bát cơm ra một phần. Đây gọi là lưu phạn. Cơm nầy không nên dùng lại khi ở bàn quá đường. Vì lẽ cơm nầy dùng để cho người khác, ý nói là người bịnh hay người làm công quả. Phần còn lại trong bát, để chính cho mình dùng. Do vậy phải lượng sức mình dùng bao nhiêu thì để lại trong bát bấy nhiêu. Như vậy cũng đầy đủ 4 pháp cúng dường trước khi dùng cơm trưa; mặc dầu chư Tăng, Ni Bắc Tông không đi khất thực.
Trước khi dùng cơm chính thức, chư Tăng, Ni niệm tam đề, ngũ quán như sau:
Nguyện đoạn nhứt thiết ác
Nguyện tu nhứt thiết thiện
Nguyện độ nhứt thiết chúng sanh.
Nghĩa:
Nguyện bỏ tất cả các việc ác
Nguyện làm tất cả những việc lành
Nguyện độ tất cả chúng sanh.
Sau đó chư Tăng, Ni mang bình bát ngang ngực thầm niệm kệ ngũ quán như sau:
Nhứt kế công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ
Nhì thốn kỹ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng
Tam phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tông
Tứ chánh sự lương dược, vị liệu hành khô
Ngũ vi thành đạo nghiệp, ưng thọ thí thực.

Nghĩa:
Một, kể công nhiều ít, so kia chỗ đem đến
Hai, xét đức hạnh mình, đủ thiếu mới nhận của cúng dường
Ba, đề phòng tâm tham lam, vì tham là cội gốc
Bốn, là vị thuốc hay, dùng để chữa bịnh gầy
Năm, nguyện thành đạo nghiệp, mới thọ cơm nầy.
Như thế trong tất cả 3.000 oai nghi tế hạnh của một người xuất gia, riêng cái ăn, cái uống, cái ngủ, cái tu, cái học v.v... đã chiếm gần trọn vẹn cả một đời người rồi. Do đó họ luôn luôn bận rộn và nhờ bận rộn như thế, họ mới có thể kiểm soát thân tâm của mình.
Người cúng dường, kẻ nhận sự cúng dường và của cúng dường thanh tịnh được gọi là: “Đẳng tam luân không tịch”. Nghĩa là bất cứ ai cũng có thể cúng dường tứ vật dụng lên chư Tăng. Đó là thuốc thang, chỗ ở, đồ mặc và thức ăn. Ngày nay chúng ta thỉnh thoảng thấy chư Tăng, Ni còn được cúng dường cả tịnh tài nữa mà ngày xưa không có. Vì lẽ ngày xưa Đức Phật và chư Tăng đi bộ, không dùng phương tiện di chuyển bằng xe cộ hay máy bay như ngày hôm nay; nên không cần đến phương tiện nầy; nhưng ngày nay xã hội đã đổi khác, sau hơn 2.500 năm lịch sử. Do vậy cần phải có phương tiện nầy; nếu không, chư Tăng, Ni sẽ khó có điều kiện để di chuyển và thực hiện những Phật sự khác như: lập chùa, đúc tượng, tô chuông, in ấn kinh sách v.v...
Người cúng dường đã có tâm thanh tịnh như vậy, thì kẻ nhận cúng dường cũng phải có tâm thanh tịnh; không mong cầu được cúng nhiều hay ít; cũng chẳng phải tìm đến tín chủ giàu sang để được nhận sự cúng dường. Tất cả đều bình đẳng. Cuối cùng là vật dâng cúng ấy phải thanh tịnh. Nếu một trong hai hay một trong ba không thanh tịnh thì kẻ cúng và người nhận sự cúng dường cũng có phước đức; nhưng không được trọn vẹn như cả ba đều được thanh tịnh.
Người bố thí có 2 cách. Đó là nội tài và ngoại tài. Nội tài tức là phần có ở bên trong thân thể của mình. Ngoại tài là phần có ở ngoài thân thể của mình. Phần bên trong cũng chia ra làm 2 phần. Đó là phần ý hướng đến sự bố thí cúng dường và ý chí ấy hướng đến phần hành động phát tâm cúng dường. Phần bên ngoài chia ra làm 2 phần. Đó là tài sản của bản thân của mình như: Mắt, tai, mũi, lưỡi, tim, thận, gan v.v... hay tài sản như vàng bạc ngọc ngà châu báu, vợ, con cung điện, đất đai v.v... Ngày xưa, khi Đức Phật còn tu Bồ Tát hạnh, Ngài đã dùng nội tài và ngoại tài để bố thí trọn vẹn; nên gọi đây là “bố thí bất nghịch ý”. Đã có lúc Ngài đã thí mạng mình để cứu đói mẹ con của sư tử. Nhiều khi Ngài bố thí cả vợ con và đất nước như trong câu chuyện: Cặp mắt Thái tử Câu Na La. Trong đời hiện tại Ngài đã để lại phía sau lưng mình nào là lầu đài cung điện, vợ đẹp con ngoan, danh thơm tiếng tốt... tất cả chỉ đổi lại bằng một đời sống khất sĩ và những hạnh nguyện lợi tha.
Việt Nam chúng ta cũng có được những ông Vua hiểu đạo như Trần Thái Tông ở vào thế kỷ thứ 13, khi vào núi Yên Tử để chỉ mong cầu làm Phật, khi gặp Quốc sư Phù Vân và nhà vua đã nói rằng: Trẫm xem ngai vàng như đôi dép bỏ. Quả thật đây là một câu nói nặng ngàn cân, hơn tất cả những công án Thiền khác, mà lâu nay chúng ta vẫn thường hay quán chiếu đến. Chính đây là bố thí ngoại tài, không sai chút nào.
Đến đời chúa Nguyễn Phúc Chu ở Đàng Trong vào thế kỷ thứ 18 đã nhờ Ngài Thạch Liêm Thích Đại Sáng khai tâm cho và quốc chúa đã thọ Bồ Tát giới với Đạo hiệu là Thiên Túng Đạo Nhân và ở cuối đời Quốc Chúa đã tuyên bố rằng: “Cả một đời làm Chúa của ta, chưa bằng một cây tích trượng của Thiền Sư đặt nơi Phương Trượng đường”. Quả thật đây là Phật Pháp; đây là chân lý, mà mấy ai hiểu rõ được tận cùng ý nghĩa của những câu nói của các bậc vua quan đã vang bóng một thời.
Bên Trung Quốc vào đời nhà Thanh nhằm vào thế kỷ thứ 17 vua Khang Hy, vua Càn Long cũng đều tuyên bố rằng: Cả một đời làm vua của Trẫm, không bằng đời sống nửa ngày của Thiền Sư hoặc nửa chiếc y vàng của một bậc trên đường giác ngộ”. Lâu nay con người ai ai cũng muốn soán đoạt ngai vàng khi có cơ hội; nhưng khi đã được làm vua, làm chúa rồi, họ chán ngấy với quyền quý và cung phi mỹ nữ; nào rượu, nào thịt, nào danh, nào lợi... Tất cả cũng chỉ là ảo ảnh phù du mà thôi. Do đó đã có rất nhiều ông Vua, bà Hoàng Hậu hay cung tần mỹ nữ, quan quân trong nhiều triều đại ở nhiều nước khác nhau đã bỏ lại sau lưng tất cả; chỉ để mong làm thân khất sĩ, thực hành hạnh nguyện từ bi lợi tha của chư Phật trong bao đời.
Ở các xứ Nam Tông, người tại gia hộ trì Tam Bảo bằng cách bố thí cúng dường để mong cho kiếp sau của mình có đời sống cao đẹp hơn, giàu có hơn và sống cuộc đời hạnh phúc hơn. Còn ở các xứ Bắc Tông, đa phần chư Tăng, Ni và Phật Tử đều hành Bồ Tát hạnh; cho nên phần bố thí cúng dường về nội tài và ngoại tài như trên chỉ mang tính cách xả bỏ; chứ không mang tính cách cầu phước. Vì lẽ như trong Kinh Kim Cang, Phật đã dạy cho Ngài Tu Bồ Đề rằng: “Dầu cho người đó của cải giàu có không cùng. Vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, xích châu, mã mão, san hô, hổ phách, trân châu v.v... nhiều đến nỗi chất cao như núi Tu Di và mỗi ngày 3 lần người thí chủ ấy đem của đáng giá kia cúng dường mười phương chư Phật từ sáng, trưa, chiều và cứ như thế trải dài trong vô lượng kiếp. Đấy cũng chưa bằng người trì tụng, biên chép và hiểu rõ nghĩa lý của một câu kinh hay một bài kệ. Trong Kinh Kim Cang có 32 đoạn tất cả. Những đoạn chính nhấn mạnh về tánh không, chúng ta thấy được như sau:
Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng
Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai.
Nghĩa:
Phàm những gì có hình tướng, tất cả đều là hư vọng
Nếu thấy các tướng, không phải là tướng, thì liền thấy Như Lai.

Đa phần chúng ta chấp vào cái có, đôi khi lại chấp vào cái không. Cái nào rồi cũng bị chấp vào nhị nguyên cả. Do đó, nếu người hiểu đạo vượt thoát lên cả hai cách chấp biên kiến nầy, tức sẽ thấy được tánh của Như Lai. Vì lẽ:
Như Lai giả vô sở tòng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai
Nghĩa:
Như Lai nghĩa là chẳng từ nơi nào đến, lại cũng chẳng có nơi nào để đi; nên gọi là Như Lai.
Đấy là như như bất động, là thể tánh trạm nhiên của sự giác ngộ và giải thoát. Vốn những điều này không có hình tướng nên chẳng cần tìm cầu.
Hoặc giả bài kệ khác trong Kinh Kim Cang như sau:
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.
Nghĩa:
Nếu dùng sắc để thấy ta
Dùng âm thanh để cầu ta
Kẻ nầy làm việc tà
Chẳng thể thấy được Như Lai.
Như vậy bất cứ ai, làm bất cứ cái gì, theo tinh thần Đại Thừa Phật Giáo mà còn mong cầu, thì người đó quyết chắc rằng vẫn còn xa cách với bờ mé giác ngộ và giải thoát, ngay cả vật bố thí, cúng dường. Do vậy: “Đẳng tam luân không tịch”, là điều căn bản và quan trọng nhất, khi hành hạnh bố thí. Điều quan trọng hơn nữa là chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của Kinh và ý nghĩa của việc bố thí, thì công đức của sự bố thí kia mới được viên mãn.
Bây giờ mỗi năm 2 lần vào dịp Đại Lễ Phật Đản hay Vu Lan tại các chùa ở Đức hay tổ chức những lần đi khất thực chung quanh chùa và người Phật Tử chuẩn bị tứ vật dụng để cúng dường. Những gì thuộc về thức ăn, đồ uống, đồ mặc, thuốc thang, kem đánh răng, xà-phòng, tịnh tài v.v... đều có thể chuẩn bị sẵn tùy theo khả năng của mình và khi chư Tăng, Ni đi ngang qua trước mặt mình, quý vị có thể đứng thẳng hay hạ mình xuống như theo truyền thống của quý Phật Tử Nam Tông thường hay dâng cúng, rồi dâng lên phẩm vật cúng dường vào trong bình bát của chư Tăng. Điều quan trọng là cung cách cúng dường và thái độ cúng dường của người Phật Tử tại gia.
Tam Bảo là phước điền và đây chính là ruộng phước để người Phật Tử tại gia gieo trồng hạt giống từ bi cũng như trí tuệ. Cho nên chúng ta không nên bỏ lỡ cơ hội nầy. Vì lẽ Tam Bảo thật khó gặp trọn vẹn trong đời nầy. Các em, con cái của quý vị sinh ra và lớn lên tại ngoại quốc nầy; nếu quý vị gieo trồng vào tâm thức đẹp ấy cho các em và tạo cho các em có cơ hội cúng dường chư Tăng, Ni, thì hạt giống từ bi và trí tuệ ấy sẽ luôn được tài bồi và truyền đi từ thế hệ nầy sang qua thế hệ khác.
Vì lẽ có nhiều Phật Tử chưa hiểu rõ việc bố thí cúng dường khi chư Tăng, Ni đi khất thực. Do vậy chúng tôi có bài nầy để giải thích những việc làm có ý nghĩa trên và mong rằng vào mùa Vu Lan báo hiếu năm nay các chùa Việt Nam tại nước Đức nói riêng, cũng như các chùa Việt khắp nơi trên thế giới nói chung, sẽ có những hình ảnh đẹp cúng dường nhân ngày Tự Tứ của chư Tăng, Ni, sau 3 tháng an cư kiết hạ là một điều nên làm, để hạt giống tâm linh ấy sớm đâm chồi nảy lộc nơi ruộng tâm của mình.

Viết xong vào ngày 26 tháng 5 năm 2009
tại Tu Viện Viên Đức - Ravensburg



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/01/2020(Xem: 5284)
Hoằng pháp là một trong 13 ban ngành thuộc hệ thống GHPGVN hiện nay. Trong phần báo cáo tổng kết cuối năm 2019, cho thấy Ban Hoằng pháp đạt nhiều thành quả hơn so với những nhiệm kỳ trước. “Hoằng pháp vi gia vụ,lợi sinh vi bổn hoài” đó là phương châm của Ban Hoằng pháp Trung ương; nhờ thế phía Bắc đã vận dụng được bốn Tỉnh có trên 317 đạo tràng sinh hoạt được 1.000 buổi giảng. Phía Nam có 29 Tỉnh thành gồm 6182 đạo tràng với số lượng buổi giảng được thực hiện là 70.693. Đặc biệt, Ban Hoằng pháp Trung ương kết hợp với Phân ban Thông tin truyền thông chuyển tải cập nhật những thông tin sinh hoạt Phật sự. Phân ban TTTT với biệt danh “phật sự online –PSO” là một phân ban, tuy thành lập muộn vào giữa năm 2019, nhưng hoạt đông rất hiệu quả,( sẽ có bài chuyên đề vê PSO đã đóng góp xử lý những khủng hoảng thông tin về Phật giáo)
14/01/2020(Xem: 8080)
Nhờ Tam Bảo gia hộ, các bạn trẻ chúng tôi biết mình là một trong những người cực kỳ may mắn, vì vào mỗi sáng Chủ Nhật đều đủ thiện duyên về Chùa học Phật Pháp. Lớp học của chúng tôi dưới sự hướng dẫn của một vị Sư Cô trẻ, nói được song ngữ Anh Việt, biết lắng nghe và giàu lòng từ bi như Sư Cô Giác Anh. Những lớp học với Sư Cô như nguồn nước mát tinh khiết từ một dòng suối trong lành vô tận mà chúng tôi và các bạn đạo luôn có thể uống, để được giải khát và thanh lọc thân tâm. Từ từ theo thời gian, mỗi chúng tôi đều thấy mình có những sự tiến bộ chút đỉnh về sự bình tĩnh, sự học hỏi và thực hành Phật Pháp và áp dụng những lời dạy thiết thực từ Sư Cô để đối phó tốt hơn với những thử thách hằng ngày.
11/01/2020(Xem: 6260)
Hai tuần qua, mọi người khắp nơi trên thế giới đã từng bừng ăn Tết Dương Lịch 2020. Là người Mỹ gốc Việt định cư ở Hoa Kỳ, Canada, hay những quốc gia khác trên thế giới, chúng ta cũng nằm trong số người đó. Tính đến nay, nhiều gia đình đã trải qua ba, bốn thế hệ. Ông bà, cha mẹ, con cái, dâu, rể, cháu, chắt... Con cái chúng ta sinh ra và lớn lên ở đất nước này, nên chúng ta cần học hỏi, hoà nhập vào nền văn hoá xã hội nơi đây là điều đương nhiên. Riêng thế hệ ông bà, cha mẹ dù định cư ở đâu cũng không quên phong tục tập quán của mình, nhất là khi Xuân về Tết đến, khiến cho chúng ta chạnh lòng nhớ ray rứt những mùa Xuân đầy ấp kỷ niệm thân thương nơi chôn nhao cắt rốn ở quê nhà. Cho nên, hằng năm ở đây, chúng ta thường đón tới hai cái Tết. Đó là Tết Dương lịch quen gọi là Tết Tây và Tết Âm lịch là Tết Ta còn gọi là Tết Nguyên Đán. Tết Nguyên Đán năm nay nhằm ngày 25 tháng Giêng 2020. Tính theo thứ tự mười hai con giáp, năm nay là năm Kỷ Hợi và năm tới là năm Canh Tý.
10/01/2020(Xem: 6849)
May mắn và tài vận của một người, rốt cuộc tới từ đâu? 1. Tới từ một cơ thể khỏe mạnh Ngạn ngữ nói: "Kim niên duẩn tử minh niên trúc, thiếu niên thể tráng lão niên phúc", ý muốn nói: năm nay là măng, năm sau là trúc, thời niên thiếu khỏe mạnh, về già càng nhiều phúc. Sức khỏe tốt mới thực sự là "tốt". Đối đãi với bản thân tốt một chút, không có sức khỏe, mọi thứ đều chỉ là hư vô, chỉ khi có một sức khỏe tốt, bạn mới có thể tận hưởng thành công, tận hưởng cuộc đời của mình. Tiền, kiếm mãi không hết; công việc, làm mãi không xong; không có chuyện gì có thể hoàn thành trong ngày một ngày hai, đừng tự làm mình quá mệt mỏi, quá bí bức mỗi ngày. Hôm nay lấy mạng "đổi" tiền, ngày mai đã có thể lấy tiền "cứu" mạng. Giống như dây đàn vậy, căng quá rồi thế nào cũng đứt.
10/01/2020(Xem: 5054)
Bạn ơi, Muốn sống hạnh phúc thì xin bạn: Đừng đem chuyện hàng xóm vào gia đình. Đừng đem chuyện đường phố vào nhà. Đừng đem chuyện cộng đồng vào những bữa cơm. Đừng đem chuyện của thế giới vào buồng ngủ. Đừng đem chuyện Cộng Hòa hay Dân Chủ, Vào những cuộc vui chơi. Ngay chùa kia nếu bàn tán chuyện đời, Thì chùa cũng biến ngay thành siêu thị.
17/12/2019(Xem: 8670)
Đầu tháng 11, Laurent Simons, 9 tuổi, hoàn thành chương trình Kỹ thuật điện tại Đại học Công nghệ Eindhoven và sẽ là người trẻ nhất thế giới tốt nghiệp đại học. Sinh năm 2010 tại thành phố Ostend, Bỉ, Laurent theo bố mẹ đến Hà Lan sinh sống. Cậu bé bắt đầu học trung học từ năm 6 tuổi và, trở thành thành viên một dự án nghiên cứu tại Trung tâm Y tế Học thuật (thành phố Amsterdam, Hà Lan).
08/12/2019(Xem: 29600)
Phật Giáo và Những Dòng Suy Tư (sách pdf)
07/12/2019(Xem: 10639)
Trong Trung Bộ Kinh, Kinh 110 Tiểu Kinh Mãn Nguyệt, Đức Phật xác quyết trên thế gian này có những người theo chánh hạnh, chánh hướng tự mình chứng đạt với thắng trí đời này đời khác, và truyền dạy lại, như đoạn kinh văn sau đây về người bất chánh có tà kiến như người bất chánh, và người chơn chánh có chánh kiến như người chơn chánh
06/12/2019(Xem: 8113)
Tuổi thơ được cha mẹ cận kề, chăm bẵm, chỉ bảo là điều hạnh phúc nhất của mỗi đứa trẻ. Nhưng xã hội ngày nay, vì nhiều lý do, tỷ lệ ly hôn tăng lên đáng kể, khiến nhiều em phải đối diện với cảnh gia đình ly tán. Những tổn thương tâm lý, khát khao được gần mẹ, gặp cha của các em như em bé trong bài viết dưới đây khiến người lớn chúng ta phải thực sự suy ngẫm.
01/12/2019(Xem: 5181)
Chánh Ngữ Trong Đời Và Đạo Nguyên Giác Lý do để viết bài này là vì bản thân người viết có sai lầm cần bày tỏ. Tuy rằng sai lầm đã hiệu đính, nhưng cũng cần nói ra, vì Đức Phật đã dạy rằng hễ sai thì nên tự mình bày tỏ. Trong Trường A Hàm, Kinh DA 24 (Kinh Kiên Cố), bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ, có ghi lời Đức Phật dạy: “Ta chỉ dạy các đệ tử ở nơi thanh vắng nhàn tĩnh mà trầm tư về đạo. Nếu có công đức, nên dấu kín. Nếu có sai lầm, nên tự mình bày tỏ.” (1)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]