Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chánh Niệm Theo Kinh Hoa Nghiêm

23/05/202013:27(Xem: 7037)
Chánh Niệm Theo Kinh Hoa Nghiêm

Chánh Niệm Theo Kinh Hoa Nghiêm

Duc_Phat_Thich_Ca (9) 

Con người ta, kể cả Đức Phật, Bồ Tát, La Hán hay thánh tăng khi còn sống thì vẫn phải đi đây đi đó, tiếp xúc, gặp gỡ, giao tiếp với người này người kia trừ khi sống ẩn tu trong hang động, núi rừng. Trong khi tiếp xúc, gặp gỡ như thế có thể “đối cảnh sanh tâm”. Thí dụ, khi bước vào một nhà giàu, có thể thể nảy sinh lòng ham muốn. Khi thấy người ta đeo nữ trang quý giá có thể sanh tâm thèm muốn hay đua đòi. Khi gặp cô gái, anh chàng đẹp trai có thể sanh tâm yêu mến. Từ yêu mến có thể sanh tâm chiếm đoạt. Khi vào chốn ăn chơi ồn ào náo nhiệt có thể anh lòng mê luyến. Khi xem phim bắn giết có thể sanh tâm bạo động. Khi đọc một bài báo, một băng Video, một bài bình luận kích động hận thù sẽ sanh tâm kỳ thị, ghét bỏ. Khi nghe băng nhạc du dương có thể nảy sinh mộng mơ. Khi đụng chạm vào người nam hay người nữ có thể sinh ham muốn xác thịt. Ngài A Nan gần gũi Đức Phật như thế, nghe pháp như thế mà khi đi khất thực gặp người đẹp quyến rũ Ma Đăng Già, tí nữa tiêu vong. Cho nên tu hành không một ai có thể ỷ y. Tâm chúng sinh giống như mặt hồ, chỉ cần một cơn gió nhẹ là lay động. Cho nên phải luôn luôn giữ gìn chánh niệm từng giây từng phút.

            Đức Phật là bậc lương y đại tài đã chẩn bệnh chúng sinh và cho “thuốc” để chúng sinh kể cả hàng Bồ Tát giữ tâm thanh tịnh, cao thượng, giải thoát, trí tuệ rộng mở…dù có đi đây đi đó, tiếp xúc với vạn cảnh, vạn tình huống. Phẩm Tịnh Hạnh của Kinh Hoa Nghiêm (bản dịch của HT. Thích Trí Tịnh) đã cho chúng ta thấy điều này.

Trong phẩm này, Bồ Tát Trí Thủ đã hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi như sau:

Phật-tử! Bồ-Tát dụng tâm thế nào, tức an trụ tâm, tâm hướng về đâu, suy nghĩ như thế nào mà có thể được tất cả thắng diệu công-đức?”

 Công đức thù thắng ở đây bao gồm:

Khéo tu tập, viên mãn “thiền-na ba-la-mật, bát-nhã ba-la-mật, từ, bi, hỉ, xả”,

được sự thủ-hộ (bảo vệ) cung kính cúng-dường của: Thiên-Vương, Long-Vương, Dạ-Xoa-Vương, Càn-thát-bà-Vương, A-tu-la-Vương, Ca-lâu-la-Vương, Khẩn-na-la-Vương, Ma-hầu-la-già-Vương, Nhơn-Vương, Phạm-Vương.”

là đuốc, là sáng, là soi, là dẫn đạo, thắng đạo, phổ đạo cho tất cả chúng-sanh

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi trả lời như sau:
-Bồ-Tát ở nhà, nên nguyện chúng-sanh, biết nhà tánh Không nên khỏi sự bức ngặt. (Không thấy tù túng, trói buộc)
-Khi hiếu thờ cha mẹ, nên nguyện tất cả chúng-sanh, kính thờ chư Phật, hộ dưỡng tất cả cha mẹ của họ.
-Vợ con hội họp, nên nguyện chúng-sanh, oán thân bình-đẳng, lìa hẳn tham trước.
-Nếu được ngũ-dục (khoái cảm của mắt, tai, mũi, lưỡi, và xác thân) nên nguyện tất cả mọi người nhổ mũi tên độc này để rốt ráo yên ổn.
-Kỹ nhạc tụ hội (đại nhạc hội, phòng trà) nên nguyện chúng-sanh hãy vui nơi chánh-pháp, thấy rõ âm nhạc chỉ là huyễn ảo, chỉ là thuốc an thần.
-Nếu ở cung thất (cung vua phủ chúa), nên nguyện chúng-sanh hãy vào nơi thánh-địa, trừ hẳn uế-dục.
-Lúc đeo trang-sức, nên nguyện chúng-sanh hãy từ bỏ mọi thứ tư trang để đến chỗ chân thật.
-Khi lên trên lầu-các, nên nguyện chúng-sanh, lên lầu chánh-pháp, thấy rõ tất cả.
-Nếu có bố-thí, nhân cơ hội này nguyện cho chúng-sanh buông bỏ được tất cả, lòng không ái trước (không còn mê luyến).
-Chúng-hội tu-tập, nên nguyện chúng-sanh, xả bỏ những tụ pháp, thành nhứt-thiết-trí.
 -Nếu ở ách nạn, nên nguyện chúng-sanh, tùy ý tự-tại, chỗ làm vô-ngại.
 -Nếu phải bỏ cư-gia, nên nguyện chúng-sanh, xuất-gia vô-ngại, tâm được giải-thoát.
 -Vào tăng già-lam, nên nguyện chúng-sanh, diễn-thuyết các thứ pháp không tranh cãi.

 -Nếu cầu xuất-gia, nên nguyện chúng-sanh, được pháp bất-thối, lòng không chướng-ngại.
 -Khi cạo bỏ râu tóc, nên nguyện chúng-sanh, lìa hẳn phiền-não, rốt ráo tịch-diệt.
 -Khi đắp y ca-sa, nên nguyện chúng-sanh, lòng không nhiễm trước, đủ đạo đại-tiên.
 -Lúc chánh xuất-gia, nên nguyện chúng-sanh, đồng Phật xuất-gia, cứu hộ tất cả.
 -Khi hướng về Phật (tự quy y Phật), nên nguyện chúng-sanh thể theo đạo lớn và phát lòng cao thượng không gì sánh bằng.

-Khi hướng về Phật pháp (tự quy y pháp), nên nguyện chúng-sanh, hiểu rõ kinh-tạng, trí-huệ mở rộng như biển cả.
-Khi hướng về chư Tăng (tự quy y tăng), nên nguyện đại chúng cùng thống nhất ý chí (một lòng), không có gì chướng ngại.
-Khi vào nhà cửa, nên nguyện chúng-sanh, lên nhà vô-thượng, an-trụ chỗ bất động.
-Nếu trải giường tòa, nên nguyện chúng-sanh, trải mở pháp lành, thấy tướng chơn thật. 

 -Khi ngồi kiết-già, nên nguyện chúng-sanh, căn lành kiên-cố, được bực bất-động.
-Tu hành nơi định, nên nguyện chúng-sanh, dùng định phục tâm, rốt ráo không thừa.
 -Nếu tu pháp quán, nên nguyện chúng-sanh, thấy lý như thật, trọn không tranh cãi.
 -Lúc để chân đứng, nên nguyện chúng-sanh, tâm được giải-thoát, an-trụ bất động.
 -Nếu cất chân lên, nên nguyện chúng-sanh, khỏi biển sanh-tử, đủ các pháp lành.
 -Lúc mặc quần dưới, nên nguyện chúng-sanh, mặc những căn lành, đầy đủ hổ thẹn.
 -Chỉnh áo cột giải, nên nguyện chúng-sanh, kiểm thúc (giữ chặt) căn lành, chẳng để tan mất.
 -Nếu mặc áo trên, nên nguyện chúng-sanh, được căn lành lớn, đến bờ pháp kia.
 -Tay cầm nhành dương, nên nguyện chúng-sanh, đều được diệu-pháp, rốt-ráo thanh-tịnh.

- Lúc đại tiểu tiện, nên nguyện chúng-sanh, bỏ tham sân si, dẹp trừ điều tội.
 -Rửa ráy thân nhơ, nên nguyện chúng-sanh, thanh-tịnh điều nhu, rốt ráo không nhơ.
 -Xối nước trên tay, nên nguyện chúng-sanh, được tay thanh-tịnh, thọ trì phật-pháp.
 -Dùng nước rửa mặt, nên nguyện chúng-sanh, được tịnh pháp-môn, trọn không nhơ bợn.
 -Bước chân lên đường, nên nguyện chúng-sanh, đến chỗ Phật đi, vào nơi vô y. (không trụ nơi nào).
 -Nếu ở đường xá , nên nguyện chúng-sanh, hãy đi đường Phật, hướng pháp vô-dư.
 -Thấy lên đường cao (lên giốc), nên nguyện chúng-sanh, khỏi hẳn ba cõi, tâm không khiếp nhược.
 -Thấy xuống đường thấp (xuống giốc), nên nguyện chúng-sanh, tâm ý khiêm hạ lớn căn lành Phật.
 -Thấy đường quanh co, nên nguyện chúng-sanh, bỏ đạo bất chánh, trừ hẳn ác-kiến.
 -Nếu thấy đường thẳng, nên nguyện chúng-sanh, tâm ý chánh-trực, không dua không dối.
 -Thấy đường nhiều bụi, nên nguyện chúng-sanh, xa lìa bụi bặm, được pháp thanh-tịnh.
 -Thấy đường không bụi, nên nguyện chúng-sanh, thường tu đại-bi, tâm ý nhuần thấm.
 -Nếu thấy đường hiểm trở, nên nguyện chúng-sanh, trụ chánh pháp-giới, lìa những tội nạn.
 -Nếu thấy chúng-hội, nên nguyện chúng-sanh, nói pháp thậm-thâm, tất cả hòa hiệp.
 -Nếu thấy trụ lớn, nên nguyện chúng-sanh, lìa tâm chấp ngã, không có phẩn hận.
 -Nếu thấy tùng lâm, nên nguyện chúng-sanh, chư thiên và nhơn, chỗ nên kính lễ.
- Nếu thấy núi cao, nên nguyện chúng-sanh, căn lành siêu thoát, không thể tột đảnh.
 -Lúc thấy cây gai, nên nguyện chúng-sanh, chóng được cắt bỏ, những gai tam độc.
 -Nếu thấy hoa nở, nên nguyện chúng-sanh, các pháp thần-thông, như hoa đua nở.
 -Nếu thấy cây hoa, nên nguyện chúng-sanh, tướng tốt như hoa, đủ ba mươi hai.
 -Nếu thấy trái hột, nên nguyện chúng-sanh, được pháp tối-thắng, chứng đạo bồ-đề.
 -Nếu thấy sông lớn, nên nguyện chúng-sanh, được dự pháp-lưu, vào Phật-trí-hải.
 -Nếu thấy bờ đầm, nên nguyện chúng-sanh, chóng ngộ diệu-pháp, nhứt vị của Phật.
 -Nếu thấy ao hồ, nên nguyện chúng-sanh, ngữ-nghiệp hoàn-toàn, hay khéo diễn-thuyết.
 -Nếu thấy giếng nước, nên nguyện chúng-sanh, đầy đủ biện tài, diễn tất cả pháp.
 -Nếu thấy suối chảy, nên nguyện chúng-sanh, thêm lớn phương-tiện, thiện căn vô-tận.
 -Nếu thấy kiều-lộ (cầu đường), nên nguyện chúng-sanh, rộng độ tất cả, dường như cầu đò.
 -Nếu thấy nước chảy, nên nguyện chúng-sanh, được ý nguyện lành, rửa nhơ phiền-não.
 -Thấy dọn vườn tược, nên nguyện chúng-sanh, trong vườn ngũ dục, dọn sạch cỏ ái.
 -Thấy rừng vô-ưu, nên nguyện chúng-sanh, lìa hẳn tham-ái, chẳng còn lo sợ.
 -Nếu thấy công viên, nên nguyện chúng-sanh, siêng tu hạnh lành, đến Phật bồ-đề.
 -Thấy người nghiêm-sức (ăn mặc chỉnh tề, đẹp đẽ), nên nguyện chúng-sanh, trang-nghiêm thân đẹp, ba mươi hai tướng.
 -Thấy không nghiêm-sức, nên nguyện chúng-sanh, bỏ những trang-sức, đủ hạnh đầu-đà.
 -Thấy người ham vui, nên nguyện chúng-sanh, vui nơi chánh-pháp, ưa thích chẳng bỏ.
 -Thấy không ham vui, nên nguyện chúng-sanh, trong sự hữu-vi, lòng không ưa thích.
 -Thấy người vui sướng, nên nguyện chúng-sanh, thường được an vui, thích cúng-dường Phật.
 -Thấy người khổ-não, nên nguyện chúng-sanh, được căn-bổn trí, dứt trừ sự khổ.
 -Thấy người mạnh khỏe, nên nguyện chúng-sanh, vào chơn-thật-huệ, trọn không bịnh Khổ.
 -Thấy người tật bịnh, nên nguyện chúng-sanh, biết thân không tịch, lìa sự tranh cãi.
 -Thấy người xinh đẹp, nên nguyện chúng-sanh, với Phật Bồ-Tát, thường kính thường tin.
 -Thấy người xấu-xí, nên nguyện chúng-sanh, với điều bất thiện, chẳng ưa chẳng thích.
 -Thấy người báo ơn, nên nguyện chúng-sanh, với Phật Bồ-Tát, hay biết ơn đức.
 -Thấy người bội ơn, nên nguyện chúng-sanh, với kẻ làm ác, chẳng trả thù oán.
 - Thấy người khổ hạnh, nên nguyện chúng-sanh, y nơi khổ hạnh, đến bực rốt ráo.
 -Thấy người hạnh tốt, nên nguyện chúng-sanh, giữ bền chí-hạnh, chẳng bỏ Phật-đạo.
 -Thấy mặc giáp-trụ, nên nguyện chúng-sanh, thường mặc giáp lành, đến pháp vô-sư.
 -Thấy không võ-trang, nên nguyện chúng-sanh, lìa hẳn tất cả, những nghiệp bất-thiện.
 -Thấy người luận nghị, nên nguyện chúng-sanh, đều dẹp phá được, tất cả dị-luận.
 -Thấy người chánh-mạng, nên nguyện chúng-sanh, được mạng thanh-tịnh, không dối giả dạng.
 -Nếu thấy Quốc-vương, nên nguyện chúng-sanh, được làm pháp-vương, thường chuyển chánh-pháp.
 -Nếu thấy vương-tử, nên nguyện chúng-sanh, từ pháp hóa-sanh, mà làm Phật-tử.
 Nếu thấy trưởng-giả (nhà giàu có tăm tiếng), nên nguyện chúng-sanh, xét đoán sáng suốt, chẳng làm điều ác.
 -Nếu thấy đại-thần, nên nguyện chúng-sanh, hằng giữ chánh-niệm, tập làm điều thiện.
 -Nếu thấy thành quách, nên nguyện chúng-sanh, được thân kiên cố, tâm không hèn nhát.
 -Nếu thấy kinh-đô, nên nguyện chúng-sanh, công-đức đồng nhóm, lòng luôn vui vẻ.
 -Thấy ở rừng vắng, nên nguyện chúng-sanh, đáng được trời người, ca ngợi kính ngưỡng.
 -Vào xóm khất thực, nên nguyện chúng-sanh, nhập thâm pháp-giới, tâm không chướng ngại.
 -Đến cửa nhà người, nên nguyện chúng-sanh, vào trong tất cả, cửa nhà Phật-pháp.
 -Vào nhà người rồi, nên nguyện chúng-sanh, được vào Phật-thừa, ba thời bình-đẳng.
  -Nếu thấy bát không, nên nguyện chúng-sanh, tâm ý thanh-tịnh, trống sạch phiền-não.
 -Nếu thấy bát đầy, nên nguyện chúng-sanh, đầy đủ trọn vẹn, tất cả thiện-pháp.
 -Nếu được cung-kính, nên nguyện chúng-sanh, cung-kính tu hành, tất cả phật-pháp.
 -Chẳng được cung-kính, nên nguyện chúng-sanh, chẳng làm tất cả, những điều bất thiện.
 -Thấy người hổ-thẹn, nên nguyện chúng-sanh, đủ hạnh hổ-thẹn, che giữ căn-thân.
 -Thấy không hổ-thẹn, nên nguyện chúng-sanh, lìa bỏ không thẹn, trụ đạo đại-từ.
 -Được thực phẩm ngon, nên nguyện chúng-sanh, đều được mãn nguyện, không lòng tham muốn.
 -Được thực phẩm dở, nên nguyện chúng-sanh, ai cũng đều được, pháp-vị tam-muội.
 -Nếu lúc ăn cơm, nên nguyện chúng-sanh, ăn món thiền-duyệt, pháp-hỉ no đủ.
 -Lúc thọ mùi vị, nên nguyện chúng-sanh, được Phật thượng-vị, cam-lộ đầy đủ.
 -Lúc ăn cơm xong, nên nguyện chúng-sanh, việc làm đều xong, đủ những phật-pháp.
 -Nếu lúc thuyết-pháp, nên nguyện chúng-sanh, biện-luận vô-tận, tuyên rộng pháp yếu.
 -Lúc ra khỏi nhà, nên nguyện chúng-sanh, thâm nhập phật-trí, khỏi hẳn ba cõi.
 -Nếu lúc xuống nước, nên nguyện chúng-sanh, vào nhứt-thiết-trí, rõ ba thời đồng.
 -Tắm rửa thân thể, nên nguyện chúng-sanh, thân tâm không nhơ, trong ngoài sáng sạch.
 -Mùa nắng nóng độc, nên nguyện chúng-sanh, bỏ lìa khổ não, tất cả đều hết.
 -Hết nắng vừa mát, nên nguyện chúng-sanh, chứng pháp vô-thượng, rốt ráo mát mẻ.
 -Lúc đọc tụng kinh, nên nguyện chúng-sanh, thuận lời Phật dạy, tổng trì (nắm giữ) chẳng quên.
 -Nếu được thấy Phật, nên nguyện chúng-sanh, được vô-ngại-nhãn, thấy tất cả Phật.
 -Lúc ngắm kỹ Phật, nên nguyện chúng-sanh, đều như Phổ-Hiền, xinh đẹp nghiêm tốt.
 -Lúc thấy tháp Phật, nên nguyện chúng-sanh, tôn-trọng như tháp, thọ trời người cúng.
 -Đảnh lễ tháp Phật, nên nguyện chúng-sanh, tất cả trời người, chẳng thấy đảnh được.
 -Đi nhiễu tháp Phật, nên nguyện chúng-sanh, tu hành không trái, thành nhứt-thiết-trí.
 -Khen công-đức Phật, nên nguyện chúng-sanh, đều đủ công-đức, ca-ngợi vô-tận.
 -Khen tướng-hảo Phật, nên nguyện chúng-sanh, thành tựu Phật-thân, chứng pháp vô-tướng.
 -Nếu lúc rửa chân, nên nguyện chúng-sanh, đủ sức thần-túc, chỗ đi vô-ngại.
 -Ngủ nghỉ đúng thời, nên nguyện chúng-sanh, thân được an-ổn, lòng không động loạn.
 -Ngủ vừa tỉnh-giấc, nên nguyện chúng-sanh, tất cả trí-giác, ngó khắp mười phương.
            Phật-tử! Nếu chư Bồ-Tát dụng tâm như vậy thời được tất cả công-đức thắng diệu. Tất cả thế-gian: chư thiên, ma, phạm, sa-môn, bà-la-môn, càn-thát-bà, a-tu-la v.v... nhẫn đến tất cả Thanh-Văn, Duyên-Giác không thể làm lay động được. “

            Nay nương theo uy lực và sự giảng dạy của ngài Văn Thù Sư Lợi chúng ta có thể nói thêm cho phù hợp với thời thế:

-Khi cầm iPhone trên tay, không khoe khoang mà phải thấy ngay phiền não.

-Khi nhận Phật tử cúng dường, nên nguyện Phật tử hiếu kính cha mẹ và hằng thuận muôn loài chúng sinh.

-Khi ăn cơm ngon, Tứ Trọng Ân xin nguyền báo đáp.

-Khi được thăng chức, xin nguyện tăng trưởng đạo tâm.

-Khi ở chùa to, nên nguyện trí tuệ và đạo đức cũng to lớn như chùa.

-Khi ngồi xe hơi, nên nguyện tu mau kẻo trễ.

-Khi ngồi máy bay, nên nguyện tu theo đốn ngộ, đại thừa.

-Khi đi trên sông nước, xin nguyện chúng sinh sớm tới bờ giải thoát.

-Khi được người cung kính, nên nghĩ tới Thường Bất Khinh Bồ Tát.

-Khi gặp MC, người mẫu, tài tử xinh đẹp, nên tu hạnh thanh tịnh, giải thoát vì sắc đẹp là sợi giây cột buộc gớm ghê.

-Khi bị ai mắng chửi, xin cám ơn và coi đây là cơ hội để xóa đi tự ngã.

-Khi có ai khen mình phải hồi hướng ngay công đức.

-Khi đi chợ, xin nguyện chúng sinh sống đạo thật thà và không gian dối.

-Khi vào sòng bài, xin nguyện chúng sinh phá bỏ vô minh.

-Khi thấy rừng già sơ sác, xin nguyện chúng sinh đừng phung phí tài nguyên.

-Khi thấy sông hồ khô cạn, xin nguyện chúng sinh thôi tàn phá môi trường.

-Thấy kẻ hung dữ, xin nguyện chúng sinh tu hạnh hỉ xả.

-Khi thấy rắn rết, hùm beo xin nguyện chúng sinh chớ gieo ác nghiệp.

-Khi thấy người khuyết tật, xin nguyện chúng sinh thường xuyên bố thí.

-Khi thấy dịch bệnh, xin nguyện chúng sinh phải nên sám hối.

-Khi làm từ thiện, phát quà cho người nghèo nên nguyện họ cố gắng vươn lên.

 Cho đồ ăn, quần áo là cần thiết nhưng không bằng giúp họ kỹ năng và mở mang trí tuệ.

-Khi thuyết pháp nên trang nghiêm cung kính, nói đúng với sự tu chứng của mình, không khoe khoang tri thức  hoặc mua vui cho Phật tử mà là “Khai thị ngộ nhập Phật tri kiến chúng sinh”, giúp chúng sinh tới an vui và giải thoát.

            Thật tỉ mỉ và vĩ đại, thánh thiện thay lời dạy của Ngài Văn Thù Sư Lợi. Đây là cách giữ gìn chánh niệm và an trụ tâm, làm sạch tâm trong mọi thời khắc, trong mọi hoàn cảnh và không cho niệm xấu xâm nhập. Trong Kinh Pháp Cú, phẩm Song Yếu, câu 13 Đức Phật dạy rằng, “Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột; cũng vậy, người tâm không khéo tu ắt bị tham dục lọt vào.” Và trong Phẩm Tinh Cần, câu 26, Đức Phật dạy thêm:

Kẻ đần độn ngu si,

Thích buông lung phóng dật,
Người trí luôn nhiếp tâm,
Như giữ kho bảo vật.

Do đó phải giữ tâm, phải chánh niệm từng giây từng phút, đừng để tâm lang thang như nóc nhà bị dột, thì lập tức phiền não lọt vào. Chánh niệm như thế này giống như âm thầm đọc thần chú vậy. Nếu làm được một phần thôi thì trí tuệ sẽ sáng như gương, tấm lòng đẹp như lụa là, uy nhiên tự tại, sống giữa trần gian mà thấy như đang ở quốc độ hay cung trời. Hành giả đang tu tập nên thường xuyên đọc tụng Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Tịnh Hạnh này.

Thiện Quả Đào Văn Bình
(California ngày 22/5/2020)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4934)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5065)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4429)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4089)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4687)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4149)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3594)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6875)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6950)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5045)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]