Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người Có Con Mắt Thứ Ba

17/05/202015:22(Xem: 6429)
Người Có Con Mắt Thứ Ba

NGƯỜI CÓ CON MẮT THỨ BA

 Con Mat Thu 3 Cua Thay-2Con Mat Thu 3 Cua Thay-1

                                            

        Trong đời sống tâm linh, có hai bước ngoặt nổi bật và cực kỳ quan trọng đã làm thay đổi cả một cuộc đời của tôi, và tôi chắc sẽ còn ảnh hưởng sâu đậm đến tận những hơi thở cuối cùng của kiếp người mà tôi đã và đang khiêng mang vác gánh.

        Bước ngoặt thứ nhất, tôi cải đạo, rời xa giáo xứ, quy y Tam Bảo, trở thành đệ tử tục gia của Sư bà trú trì chùa Hang tọa lạc bên bờ hạ nguồn con sông Cái, học kinh trì chú, tập tành tu sửa và hành trì theo pháp Phật, với sự dìu dắt nhắc nhở hằng ngày của chồng tôi, một Phật tử thuần thành…

        Bước ngoặt thứ hai, tôi được gặp Thầy. Thầy đã hoan hỷ thâu nhận tôi vào hàng ngũ thiền sinh đang được Thầy hướng dẫn tu tập thiền định, hằng ngày hành trì ngũ giới, sám hối sáu căn, và điều tuyệt diệu nhất là được nghe những lời giáo huấn sâu sắc, những câu chuyện kỳ thú mầu nhiệm, những bài kệ câu kinh uyên huyền thâm thúy, hay những bài thơ áng văn mộc mạc từ bao lần trực tiếp giảng pháp của Thầy…

      Thầy, một giảng sư và giáo thọ của các lớp Phật Học dành cho tăng ni, cũng từng nhiều chuyến xuất ngoại đăng đàn thuyết pháp tại các thiền tự ở Úc và Hoa Kỳ. Thầy, một môn đồ xuất chúng của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, dòng thiền của dân tộc Việt Nam. Trên bước đường du hóa, khi đến Nha Trang, chọn một chốn ngoại thành vắng lặng yên tĩnh, Thầy tạo lập một thiền thất nho nhỏ để từ đây vừa tu hành vừa thực hiện đại nguyện hoằng pháp lợi sanh của một người xuất gia. Nhân duyên hội đủ, tôi được phước duyên gặp Thầy, để rồi hằng ngày vượt đoạn đường 8 cây số bất kể nắng mưa, bắt đầu bước chân vào chốn Thiền đầy những mới lạ kỳ thú và vi diệu thiêng liêng…

       Thầy, y chỉ sư của tôi, là một ngọn bảo đăng soi chiếu sáng rực tứ bề trên con đường tu học mà tôi đã chọn để đi cho đến tận cùng.

      Khi chưa gặp Thầy, tôi chỉ là một Phật tử đơn thuần chỉ biết đi chùa lễ Phật, tay bưng ngọn đèn đi trên nẻo Đạo mà lắm khi không biết phải đi về đâu, đi về hướng nào, rẽ trái hay rẽ phải, thẳng tiến tới ngõ trước mặt hay quay trở lại đường sau lưng… Được gặp Thầy rồi, tôi từng buổi từng ngày tự tin hẳn lên trong cuộc sống hằng ngày có biết bao điều để đương đầu ứng phó. Tôi đã dần dần biết và kiểm soát được từng bước chân của mình. Tôi biết rõ mình đang đi đâu, đi tìm gì, khi nào dừng lại, khi nào bước nhanh, khi nào bước chậm rãi khoan thai, khi nào dũng mãnh bước những bước hiên ngang, và khi nào dừng chân đứng bất động trong tĩnh lặng. Quay về với nội tâm, quay về với chính mình, đó là nẻo đường mà ngón tay của Thầy đã hướng chỉ.

      Khi chưa gặp Thầy, tôi ê a đọc kinh, lâm râm trì chú, hai tay cung kính khư khư ôm mang pháp Phật như vũ khí hộ thân đi trên đường trường, mà lắm khi không rõ bảo vật mình mang theo đó có giá trị như thế nào, quý giá cỡ bao nhiêu, công dụng hữu hiệu ra làm sao… Được gặp Thầy rồi, tôi mỗi ngày mỗi sáng mắt lên, khai thông đầu óc, hiểu rõ từng câu pháp cú, biết được từng đoạn kinh hay, thấy được “gia trung hữu bảo” (của báu có trong nhà) để thôi nhọc công lung tung tìm kiếm ở những nơi xa xăm trắc trở và huyễn hoặc mơ hồ, mà tự trở về nhà mình lục lọi mang ra để chiêm bái, để nâng niu săm soi, để  nghiền ngẫm suy tư, để thực hành ứng dụng…

      Khi chưa gặp Thầy, cái Tôi, cái Ngã của tôi lúc nào cũng dềnh dàng phốp pháp, lềnh khềnh phỗng phao, nên rất ít khi tôi chịu nhường ai nhịn ai, rất ít khi tôi bao dung tha thứ, rất ít khi tôi nhận lỗi về mình mà cứ trách cứ bắt bẻ lỗi ở người. Tôi hay tự ái, tôi hay bừng bừng nổi cơn nóng giận, lẫy hờn, như một con thú hoang cứ mãi trúng tên lãnh đạn bị thương tổn giữa cuộc sống đa đoan và quá nhiểu thử thách… Được gặp Thầy rồi, tôi thấy được rõ mình chỉ là một sinh linh bé bỏng nhỏ nhoi, nhận ra mình chỉ là một hạt bụi giọt nước chẳng có ý nghĩa gì, chẳng có chút trọng lượng hay thể tích nào giữa muôn trùng núi cao biển rộng và đất trời bát ngát mênh mang.

       Từ khi được gặp Thầy, cuộc đời tôi như mở những trang sách mới. Tôi được thêm niềm tin, thêm nghị lực để bước từng bước trên con đường tu sửa có thể chuyển được nghiệp cho mình. Càng học càng tu sửa, tôi càng đương đầu chống chọi với nhiều thử thách gian truân, càng gặp nhiều thấy nhiều những chướng duyên nghịch cảnh đến với mình. Đôi lúc chướng duyên như gió bão, nghịch cảnh như hỏa hoạn ập đến bất thường và hung bạo, tôi yếu đuối chao đảo, tôi giãi đãi ngã nghiêng, tôi sân si gào thét… Nhưng rồi đã có Thầy. Thầy hiển hiện. Thầy hiện ra sừng sững và sáng trưng, không phải bằng hình tướng mà bằng đạo hạnh, bằng từ ngôn hiền ngữ vốn đã thấm sâu vào tâm tưởng của tôi từ những ngày tôi theo học Đạo. Thầy đã dìu đỡ tôi đứng dậy sau khi tôi vấp ngã. Thầy đã hóa thân thành một trụ cột vững chãi chắc chắn cho tôi nương tựa khi tôi lảo đảo liêu xiêu, và  thành chiếc phao cứu sinh căng đầy hơi khí cho tôi bám víu khi tôi đang vũng vẫy chới với giữa sóng nước cuồn cuộn…

       Từ khi được gặp Thầy, tôi biết buông xả. Tôi tha thứ cho người khác một cách dễ dàng. Tôi tự làm tiêu tan cơn giận đang nổi lên trong mình một cách chớp nhoáng. Tôi bỏ ngoài tai một cách dửng dưng những lời đàm tiếu chê bai, những lời khích bác dè bĩu của người khác ném bắn vào mình, và tôi biết cả cách nghe bên tai này cho chạy qua tai kia đi mất hút cả những lời khen tụng ngợi ca mà mọi người dành cho mình. Tôi biết cách hòa hợp với đại chúng, hòa đồng với đạo tràng có lắm đạo hữu mà trước đó tôi đã rất kiêng dè sợ sệt. Tôi biết cách bình tâm đón nhận những chuyện buồn lo, những biến đổi trái ý, những phiền não từ bát phong trong cuộc sống đời thường, để sáng suốt xử lý và giải quyết một cách nhẹ nhàng và hiệu quả.

      Chặng đường bắt đầu theo Thầy học đạo, tu tâm sửa tánh của tôi không những không phải phẳng phiu thông thoáng, thuận lợi dịu êm, mà còn phải đương đầu với rất nhiều hố hầm đồi núi, vượt qua những lùm bụi gai góc nhớp nhơ. Tôi tu học cũng đâu phải xuất sắc giỏi dang gì, dù luôn quyết giữ tinh tấn, cố giữ oai nghi, nhưng bản lĩnh yếu kém, đạo lực chưa đủ lớn mạnh để chiến đấu với ma quân, tranh sức với tà kiến, cho nên đã đôi lần tôi buông tay lùi bước…

      Tôi đã có lần mang ý định rời bỏ Thầy, đã đôi lần có ý chạy trốn khỏi đạo tràng mà mình đang gắn bó sinh hoạt thiền tập; cũng đã đôi lần đi tìm một chốn già lam khác, một vị Thầy khác để tiếp tục cuộc hành trình cầu đạo tu tâm.Vậy mà, tôi không đi đâu nơi khác được, đã có đi rồi nhưng lại phải quay trở về với Thầy. Như một mối duyên tiền định, vô hình vô ảnh, tôi không thể tìm một vị Thầy nào khác hơn ở một thiền tự nào khác hơn. Đạo hạnh và oai nghi của Thầy, cùng với khung cảnh thân thương của thiền thất, sự quan tâm thân thiện của đạo hữu, và những buổi tối tụng kinh với nghi thức sám hối sáu căn, những buổi pháp thoại vang vang văng vẳng tiếng Thầy chân tình điểm đạo, khai mở trí tâm… đã níu đôi chân tôi lại, kéo thân tâm tôi quay về. Thầy đã xem như không có chuyện gì xảy ra, và đón nhận đứa con lêu lỗng trở về bằng cái Tâm của một người cha tinh thần đầy Bi - Trí - Dũng.

      Thầy như có con mắt thứ ba. Tuệ nhãn, con mắt của trí tuệ bất khả tư nghì. Chính những lúc tôi chao đảo thì Thầy xuất hiện nhắc nhở khuyên lơn. Những khi tôi nhụt chí chùn chân thì bóng Thầy loáng thoáng một bên, động viên an ủi. Những lần tôi trăn trở với những câu hỏi to tướng luẩn quẩn trong đầu, thì lời giảng của Thầy chiếu rọi vào làm cho tôi tỉnh ngộ thông suốt. Rất nhiều lần tôi thấy như mình đang có mặt trong bài thuyết pháp của Thầy dành cho đại chúng, có mặt với những khuyết nhược điểm cần được chỉnh sửa xóa bỏ. Lạ nhất là mỗi khi tôi cảm thấy chơ vơ, lạc lõng, đứng ngồi không yên, thì Thầy gọi điện thoại thăm hỏi đúng lúc, hoặc gọi tập trung đi theo Thầy cùng đạo tràng hộ niệm. Thầy như đọc được ý nghĩ, thấy được suy tư, và nắm được những nỗi băn khoăn khắc khoải đang được giấu kín trong thâm tâm tôi. Từ đó, ánh sáng của Trí Tuệ từ Thầy đã truyền vào và thấm đẫm trong tôi, lôi tôi ra khỏi vùng u mê tăm tối, kéo tôi ra khỏi cõi rối rắm nhiêu khê, để cho tôi ngày càng tăng trưởng niềm tin vào Phật pháp, tinh tấn bước chậm mà chắc trên đường tu học còn dài hun hút thênh thang…

       Đã có lắm lúc tôi chợt nghĩ, mai sau, ừ phải, mai sau gẫm theo lẽ vô thường, và gẫm theo lý nhân duyên, nếu pháp duyên giữa tôi và Thầy bỗng dưng đứt đoạn, đạo duyên đột ngột tắt nín tan bay, tôi sẽ không còn được theo Thầy để tu học nữa, không còn được hằng ngày bước chân vào chốn thiền môn của Thầy nữa, thì tôi vẫn tin rằng, tin chắc, mỗi bước đi của tôi trên một nhánh đường Đạo nào đó đã khác lạ, đều vẫn được “con mắt thứ ba” của Thầy dõi theo không rời, không rời…

       Rồi thiệt vậy, đến một ngày duyên tan nợ dứt, tôi rời khỏi đạo tràng tu thiền, rời khỏi thiền tự, rời khỏi Thầy để tự đi trên lối đi tự tìm chọn thích hợp hơn với căn cơ và hoàn cảnh gia đình của mình. Không sao hết! Tuy xa nhưng vẫn gần, rời mà vẫn ở lại nơi bóng của Thầy vẫn luôn tỏa trùm để chở che bảo bọc cho tâm linh của tôi…

      Từ đó đến nay, tôi vẫn luôn trăn trở với câu hỏi tự đặt ra và tự trả lời: Nếu không được gặp Thầy, không biết bây giờ tôi là một người ngợm gì? Đó là một câu hỏi lớn, mà chỉ có mỗi mình tôi giải đáp được cho cặn kẽ, rốt ráo. Nhưng, có thể còn một người thứ hai giải đáp được, đó là người có “con mắt thứ ba”: Thầy!

 

Tâm Không Vĩnh Hữu
(ghi lại & nhuận sắc tự sự của một Phật tử)

Con Mat Thu 3 Cua Thay-4Con Mat Thu 3 Cua Thay-3

                                            

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/10/2017(Xem: 11515)
Giữa tháng 9 năm 2017, chúng tôi đi Paris, nước Pháp, để thăm gia đình và bạn bè, đã 10 năm chưa có dịp gặp lại. Thi và tôi đã để ra 3 ngày đi thăm vợ chồng người bạn của Thi khi còn học ở trường Trung học Gia Long - Saigon, vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. Chị Hồng và anh Ngọc đang ở tại thành phố Oberhausen. Đây là thành phố nằm trong vùng kỹ nghệ sông Ruhr thuộc tiểu bang NordRhein- Westfalen, phía Tây-Bắc nước Đức.
30/10/2017(Xem: 10141)
Dưới đây là bài viết của Lạt-ma Denys tóm lược một số các bài thuyết giảng của chính tác giả tại ngôi chùa Tây Tạng Karma Ling, tọa lạc trong vùng núi Alpes trên đất Pháp. Bài viết nêu lên một sự hiểu biết mang một tầm quan trọng vô song trong Dharma/Đạo Pháp của Đức Phật, đó là khái niệm "Tương liên, tương tác và tương tạo" giữa tất cả mọi hiện tượng dù vô hình hay hữu hình, thuộc thế giới bên ngoài hay bên trong tâm thức một cá thể. Tiếng Pa-li gọi khái niệm này là Paticca-samuppada, tiếng Phạn là Pratitya-samutpada, tiền ngữ "pratitya" có nghĩa là "lệ thuộc vào" [một thứ gì khác], hậu ngữ "samutpada" có nghĩ là "hiện lên" hay "hình thành"..., Các ngôn ngữ Tây Phương gọi khái niệm này là: Interdependence, dependent origination, dependent arising, dependent co-production, conditioned co-production, conditioning co-production, v.v.; kinh sách Hán ngữ gọi là "Lý duyên khởi". Có thể tạm dịch sang tiếng Việt là "Nguyên lý tương liên, tương tác và tương tạo", tuy nhiên cũng có thể gọi vắn
27/10/2017(Xem: 10459)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ. Nhỏ như chuyện bất hoà khó chịu xảy ra liên tục với người xung quanh. Nhỏ như yêu thương người này ghét bỏ người kia một cách tự nhiên, hay người này cực khổ chăm sóc nuôi dưỡng người kia mà bị người kia càm ràm nặng nhẹ gây khó dễ hết chuyện này sang chuyện khác, hoặc chính bản thân mình đau ốm bệnh hoạn triền miên chạy chữa khắp nơi mà không dứt bệnh. Lớn như chuyện con cái trong nhà không nghe lời dạy dỗ của cha mẹ, ra ngoài xã hội quậy phá phạm luật chịu cảnh tù tội khiến kẻ làm cha làm mẹ chịu nhiều lo âu và đau khổ.
26/10/2017(Xem: 9936)
Tông Câu-xá ngày nay không còn, mặc dù trước kia, tông ấy đã có một thời hưng thịnh với rất nhiều người tu tập theo. Tuy nhiên, ảnh hưởng sâu sắc của tông này cho đến nay vẫn còn rất rõ rệt trong Phật giáo. Tên gọi Câu-xá của tông này vốn được phiên âm từ tiếng Phạn là Kośa, có nghĩa là “kho báu”. Đây cũng là tên gọi một bộ luận nổi tiếng của Bồ Tát Thế Thân. Tên tiếng Phạn của bộ luận này là Abhidharmakoa-stra, phiên âm là A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận, và là giáo lý căn bản của Câu-xá tông. Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ. Ngài là em ruột của Bồ Tát Vô Trước, người đã sáng lập ra Duy thức tông. Câu-xá tông là một tông thuộc Tiểu thừa, trong khi đó Duy thức tông là một tông Đại thừa. Ban đầu, ngài Thế Thân học theo giáo lý Tiểu thừa, thuộc Nhất thiết hữu bộ, là một trong 18 bộ phái Tiểu thừa đầu tiên của Ấn Độ đã phân chia sau khi Phật nhập diệt khoảng gần 200 năm. Ngà
23/10/2017(Xem: 29455)
Tin vui: Tế bào ung thư bị tiêu diệt trong 42 ngày bằng ly nước ép đã thành công ngoài mong đợi, cả thế giới đang mở tiệc để ăn mừng, Rudolf Breuss đã dành cả cuộc đời để tìm cách chữa bệnh ung thư và cuối cùng vị nhân sĩ người Áo này đã thành công.
23/10/2017(Xem: 102117)
Gần hai tuần qua chúng ta nghe tin tức phóng sự trên các hệ thống truyền thanh và truyền hình trên toàn quốc Hoa Kỳ về cảnh cháy rừng khủng khiếp ở vùng bắc San Francisco bang California. Theo báo cáo cách đây 4 ngày thì khoảng 250,000 km2 diện tích bị cháy (tương đương với diện tích tiểu bang New York). Nhà cửa bị cháy, 43 người chết, hơn 200 người mất tích, và gần 40,000 người phải di tản. Hiện nay đám cháy vẫn còn tiếp diễn nhưng ở một vài nơi cư dân di tản đã được phép trở về lại nhà của mình.
17/10/2017(Xem: 8653)
Văn hóa Phật giáo tại hội sách Frankfurt Book Fair lớn nhất thế giới 2017 Đây là lần đầu tiên 2 chúng tôi đi Đức và cũng là lần đầu tiên đến với hội sách lớn nhất thế giới Frankfurt Book Fair. Chúng tôi lại được Thầy của chúng tôi, TS Nguyễn Mạnh Hùng trực tiếp dẫn đi. Một tuần ở hội sách chúng tôi mệt lừ nhưng ai cũng hạnh phúc vì chúng tôi học được rất nhiều và hơn thế nữa những trải nghiệm từ nhiều góc độ làm chúng tôi trưởng thành hơn. Nhưng trong bài này, chúng tôi chỉ chia sẻ 1 góc rất nhỏ về văn hóa Phật giáo ở đây trong những ngày qua.
17/10/2017(Xem: 7913)
Niềm vui của việc gặp gở những người ta yêu, nổi buồn của việc mất mát người thân, sự phong phú của của những giấc mơ đầy sức sống, sự an bình của những bước chân qua khu vườn vào một ngày xuân, sự hoàn toàn an định trong một thể trạng thiền tập sâu xa – những thứ này và những thứ nọ giống như chúng cấu thành một thực tại kinh nghiệm của chúng ta về [tâm] thức. Bất chấp nội dung của bất cứ kinh nghiệm nào trong ấy là gì, thì không ai trong tâm nhạy cảm của họ có thể nghi ngờ về thực tại ấy.
15/10/2017(Xem: 11564)
Giới đàn là một trong những sinh hoạt đặc thù của Tăng-già, được quy định hết sức chặt chẽ trong Luật tạng. Tuy nhiên, ở một số địa phương, việc thực hiện giới đàn chưa được quan tâm một cách nghiêm túc cần thiết. Sau đây là một trong những hiện tượng như thế. Từ lá thư hoài nghi của một tân giới tử Tỳ-kheo-ni… Vào một buổi chiều tháng 12 gần cuối nămdương lịch, người viết tới thăm Hòa thượng Luật sư Thích Minh Thông tại Giới đàn viện Huệ Nghiêm. Vì là chỗ Thầy trò, cũng là để học hỏi và trao đổi giới luật với ngài nên chúng tôi thường xuyênlui tới mỗi khi có dịp. Lần này vào thăm ngài, bàn trà chưa kịp rót ra như mọi khi thì Hòa thượng đã vội đến bàn làm việc, lục tìm trong chồng thư từ ra một bức thư chuyển phát nhanh. Hòa thượng trở lại bàn trà và mở lá thư ra đọc cho người viết nghe nội dung bức thư ấy.
11/10/2017(Xem: 7550)
Sáng nay, mở cửa đón một ngày mới, ngày mới có thực đang hiển hiện rõ ràng trước lục căn cùng lúc tiếp nhận, nên xin đừng nói đó là ngày của cõi chiêm bao hư ảo, của cõi vô thường giả tạm, tôi lại nhận được tin thêm một người hàng xóm đã qua đời. Một người mẹ, người bà, đã tám mươi năm sống với thế gian hỗn độn lổn ngổn sướng khổ buồn vui. Hết nợ hết duyên kiếp này rồi, thì bà xuôi tay nhắm mắt vĩnh biệt trần gian mà ra đi thôi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]