Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khái lược Liên minh Phật giáo Italia

01/05/202019:04(Xem: 6773)
Khái lược Liên minh Phật giáo Italia

Khái lược Liên minh Phật giáo Italia

 Logo UBI 1

Liên minh Phật giáo Italia (L'Unione Buddhista Italiana, UBI) có gần 60 hội đoàn là thành viên của Liên đoàn. Liên hội này là một tổ chức tôn giáo, văn hóa và từ thiện xã hội. Liên hội không đại diện cho một tông phái nào, liên hội tập họp mọi hoạt động  để bảo tồn và tôn trọng mọi tông phái.

 

Phật giáo là tôn giáo thứ ba sau Thiên chúa giáo và Hồi giáo. Có hơn 100 nghìn Phật tử, chiếm 0, 2% dân số. Tuy nhiên mỗi ngày một gia tăng.

 

Liên minh Phật giáo Italia (L'Unione Buddhista Italiana, UBI) được thành lập tại Mialn vào năm 1985 bởi các trung tâm Phật giáo của tất cả các truyền thống Phật giáo hiện diện tại Italia, những thành viên Phật giáo gồm các truyền thống khác nhau cảm thấy cần phải thực thi ý nghĩa Tăng già, phải tôn trọng Lục hòa Kỉnh pháp, luôn đoàn kết, hài hòa trong hợp tác, như đã xảy ra ở các quốc gia châu Âu khác (Pháp, Đức,Áo, Hà Lan, Tây Ban Nha, v.v. . .).

 

Liên minh Phật giáo Italia (L'Unione Buddhista Italiana, UBI) bao gồm các tông phái Theravâda, Mahâyâna, Vajrayâna), thành lập năm 1985 và được quốc gia công nhận là một cơ quan tôn giáo có tư cách pháp nhân vào tháng 1 năm 1991, có trụ sở chính tại Rome. Liên đoàn là thành viên của Liên đoàn Phật giáo Âu Châu, có hơn 70 nghìn Phật tử, trong đó có 50 nghìn người Ý.

 

Liên minh Phật giáo Italia (L'Unione Buddhista Italiana, UBI) là một cơ quan tổ chức Phật giáo được công nhận bởi Nghị định của Tổng thống nước thứ 8 Cộng hòa Italia Francesco Cossiga ký ngày 3/1/1991, tập hợp các trung tâm, tổ chức, cơ sở tự viện Phật giáo thuộc các truyền thống Phật giáo, Nguyên thủy, Đại thừa và Kim Cương thừa. Tuân theo Điều 8 của Hiến pháp nước Cộng hòa Italia, để thiết lập quan hệ chính thức với Chính phủ Italia và bảo vệ các quyền của chư tăng và Phật giáo đồ, cả công dân Italia và Phật giáo từ các quốc gia châu Á và cư dân của Quốc gia Italia, UBI đã đạt được sự thỏa thuận phê chuẩn của Chính phủ Cộng hòa Italia vào ngày 11 tháng 12 năm 2012.

 

Các trung tâm Phậ giáo thuộc các truyền thống Phật giáo Nguyên thủy (Theravada), Phật giáo Đại thừa (Mahayana), Tông phái Thiền Phật giáo Hàn Quốc, một phần của thiền phái Thiên Thai, Phật giáo Kim Cương thừa gồm các dòng Phật giáo Mật tông Gelugpa, Kagyupa, Nigmapa và Sakyapa hiện đang là một phần của UBI.

 

Tổ chức UBI được lãnh đạo bởi một ban Giám đốc, trong đó tất cả các truyền thống Phật giáo đều hiện diện tại Italia.

 

Tổ chức UBI cũng đã liên kết với Liên minh Phật giáo châu Âu (European Buddhist Union, EBU)

 

Lịch sử:

 

Theo lịch sử Liên minh Phật giáo Italia (L'Unione Buddhista Italiana, UBI) bắt đầu khởi xướng từ năm 1984 do sáng kiến của Trưởng lão cư sĩ Vincenzo Piga (1921-1998), một trong những nhân vật chính của dự thảo kế hoạch, dự án và sáng lập một số trung tâm Phật giáo, sau đó thắp sáng ánh đạo nhiệm mầu và hạnh đức Như Lai, từ bi trí tuệ, tự do bình đẳng lan tỏa khắp nơi trên lãnh thổ Italia (một quốc gia theo Công giáo khoảng 96%), bắt đầu gặp gỡ để thành lập một hiệp hội, thực tế hóa những trung tâm Phật giáo khác nhau tại Italia. Đạo luật đề xuất phát sinh từ các cuộc họp này đã được ký kết vào ngày 17 tháng 4 năm 1985 tại thành phố Milan, miền bắc Italia bởi 9 trung tâm Phật giáo.

 

Mục tiêu là thành lập một Hiệp hội các trung tâm Phật giáo thuộc nhiều truyền thống khác nhau, có thể là điểm liên lạc duy nhất giữa Nhà nước và các tổ chức Phật giáo, năm sau 9 trung tâm khác đã được t tiếp tục nhân rộng dần rất nhiều đến mức UBI ngay nay đã có gần 60 trung tâm Phật giáo.

 

Từ nguồn Liên minh Phật giáo Italia (UBI) đã đặt ra như là một Liên hiệp các trung tâm Phật giáo và nhằm mục đích hỗ trợ và đại diện cho toàn bộ phong trào Phật giáo trong tất cả các giao dịch lịch sử. Mục đích của nó chủ yếu là tập hợp và hỗ trợ các trung tâm Phật giáo Italia khác nhau, góp phần phổ biến chính pháp Phật đà, và hiện thực hóa giáo lý từ bi trí tuệ trong đời sống thường nhật, phát triển sự hợp tác giữa các trường phái Phật giáo khác nhau, và khuyến khích đối thoại trên tinh thần Lục hòa Kỉnh pháp với các cộng đồng tôn giáo khác với văn hóa và các học giả, về các chủ đề quan tâm chung, tăng cường quan hệ với Liên minh Phật giáo châu Âu (EBU), Liên hữu Phật giáo Thế giới (World Friendship of Buddhists, WFB) và các tổ chức Phật giáo nước ngoài và quốc tế khác.

 

Từ năm 1987, UBI là một phần của Liên minh Phật giáo châu Âu.

 

Trong những năm tiếp theo, UBI cam kết sẽ có được sự công nhận hợp pháp với tư cách là Cơ quan tôn giáo và ký thỏa thuận với Nhà nước Italia, theo yêu cầu của Điều 8 của Hiến pháp nước Cộng hòa Italia.

 

Vào ngày 3 tháng 1 năm 1991, với một Nghị định của Tổng thống nước thứ 8 Cộng hòa, Italia Francesco Cossiga, sau đó được điều chỉnh vào ngày 15 tháng 6 năm 1993, UBI đã được công nhận hợp pháp là một tổ chức Phật giáo. Mặc dù các cuộc đàm phán với Chính phủ về thỏa thuận có một tiến trình khó khăn bởi bàn bạc thảo luận có thể bắt đầu cụ thể vào năm 1998, nhưng sự kiện đã được ký kết lần đầu tiên với Chính phủ nước Cộng hòa Italia vào năm 2000 và sau đó vào năm 2007, cuối cùng thỏa thuận đã được Quốc hội nước Cộng hòa Italia phê duyệt vào năm 2012 (Luật số 245 ngày 31/12/2012), nhờ vào sự thu hút và phổ biến của các phương tiện truyền thông mà các chuyến công du viếng thăm và các cuộc họp công khai của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã diễn ra trong những năm này. Thỏa thuận điều này được phê duyệt cùng với Liên minh Ấn Độ giáo và Italia là một điều quan trọng mới lạ, bởi lần đầu tiên Nhà nước Italia đã ký một thỏa thuận với các truyền thống không đến từ chi nhánh Do Thái-Kitô giáo. Một luật khung về tự do tôn giáo đã được trình bày nhiều lần trong các cơ quan lập pháp cuối cùng nhưng rất ít may mắn, mặc dù nhu cầu của nó ngày càng rõ ràng với sự thay đổi của xã hội Italia về việc thúc đẩy toàn cầu hóa, và thay đổi các diễn biến về quốc tế.

 

Từ năm 2014, đã chỉ ra rằng Liên minh Phật giáo Italia là tổ chức nhận 8 phần nghìn tờ khai thuế của các cá nhân mà UBI sẽ có thể tài trợ cho các dự án để hỗ trợ việc sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng tôn giáo và phúc lợi xã hội, nhân đạo cho số tiền được chỉ định trực tiếp. Trong khi các khoản tiền còn lại, sẽ đến từng phần không được chỉ định, sẽ được dành riêng cho các dự án nhân đạo ở Italia và nước ngoài, cũng có thể được đề xuất bởi các hiệp hội, cơ quan và tổ chức phi Phật giáo. Phật giáo đại diện bởi UBI được đặt trưng bởi tinh thần cởi mở và đối thoại mạnh mẽ với các tôn giáo khác, với thế giới Công giáo mà nó đã có và vẫn còn mối quan hệ trực tiếp thường xuyên, đặc biệt là với Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn hiện diện tại các thành phố lớn của Italia.

 Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Thiền sư tiến sĩ Rawata Dahamma và Trưởng lão Hòa thượng Urgyen Sangharakshita

Hoạt động thường niên:

 

Liên minh Phật giáo Italia (UBI) tổ chức kỷ niệm Vesak thường niên luân phiên tại một thành phố khác nhau của Italia, với các nghi lễ và hội nghị tôn giáo. Lãnh đạo UBI cũng tham gia vào các cuộc họp và hội nghị với các giáo phái tôn giáo bạn, các trường đại học, các tổ chức và tổ chức của Italia và châu Âu.

 

UBI cũng hiện diện khắp nơi trong các trường học tại Italia, với các hoạt động thông tin về tôn giáo, triết học Phật giáo với các hội thảo và khoảnh khắc thực hành thiền định Phật giáo. Hơn nữa, nhờ 8 phần nghìn Quỹ và phối hợp với các tổ chức thuộc Xã hội dân sự như một khu vực thứ ba (Organizzazioni del Terzo Settore) trong xã hội, UBI hỗ trợ cho các dự án nhân đạo và phúc lợi xã hội tại Italia và nước ngoài, nhằm vào các nhóm dân số khốn khổ mong manh nhất và để khẳng định quyền con người và quyền công dân. Sự hỗ trợ cũng hướng về dự án thúc đẩy quan tâm và tôn trọng môi trường, thúc đây văn hóa bền vững của con người và xã hội, quyền hoạt động và hòa nhập cộng đồng xã hội đối với công dân, người Italia và người nước ngoài, và cho sự phát triển kinh tế xanh và bền vững theo “Kinh tế học Phật giáo, tiếng Italia: economia Buddhista, tiếng Anh: Buddhist economics” là một cách tiếp cận của Phật giáo đối với kinh tế học. Kinh tế học Phật giáo khảo sát đặc điểm tâm lý của trí óc con người, và những ưu tư, khát vọng, và cảm xúc vốn thúc đẩy hoạt động kinh tế. Cách hiểu về kinh tế học của Phật giáo nhắm đến việc làm rõ những gì là có hại và những gì là có ích trong những hoạt động của con người liên quan đến sản xuất và tiêu thụ, và nhất là cố gắng làm cho con người trưởng thành về mặt đạo đức. Bởi lý do này, họ hoạt động đối thoại với các đối tượng khác nhau trong lĩnh vực nghiên cứu, với các trường đại học, cơ quan, tổ chức, tổ chức của Italia và quốc tế để phát triển các hoạt động, dự án hài hòa với các giá trị của nó và có khả năng tạo ra một mô hình xã hội, văn hóa và con người mới.

 

Nhân dịp chào mừng kỷ niệm Vesak PL. 2564, vào ngày 17/3/2020. Liên minh Phật giáo Italia (UBI) đã phân bố 3 triệu euro để phân bổ trong việc ứng phó với tình trạng khẩn cấp bởi đại dịch Virus corona hiểm ác và để trả lại niềm tin mà nhân dân Italia đã thể hiện 8 phần nghìn: 1,5 triệu euro được chi cho việc Bảo vệ dân sự và 1,5 triệu euro đã đến với một Quỹ để hỗ trợ cho các hoạt động dịch bệnh cho những đối tượng bất hạnh khốn khổ mong manh nhất.

 

Tài liệu tham khảo được đọc nhiều nhất tại thư viện trụ sở UBI:

 

Thư mục về Phật giáo là vô cùng rộng lớn, đặc biệt một trong Anh ngữ. Đây chỉ là một vài tiêu đề huớng dẫn người lần đầu tiên đọc tiếp cận Phật giáo. Thư mục sách Phật giáo được cấu trúc để chỉ ra một số tiêu đề giới thiệu chung và giới thiệu về truyền thống cá nhân.

 

Cuối cùng, IBU khuyên những người quan tâm đến việc đào sâu một truyền thống cụ thể, nên trực tiếp đến trung tâm IBU của truyền thống cụ thể đó.

 

Giới thiệu về Phật giáo và lịch sử Phật giáo: Các văn bản cơ bản:

 

- Thich Nhat Hanh, Vita di Siddharta il Buddha, Ed. Ubaldini

 

- Walpola Rahula, L’insegnamento del Buddha, Ed. Paramita, Roma, 1994

 

- Tenzin Ghiatso, XIV° Dalai Lama, La Via della Liberazione, Ed. Pratiche

 

- Schumann, Il Buddha storico, Ed. Salerno

 

- Tradizione Ch’an e Zen

 

* Sách Thiền (Ch’an) PG Trung Hoa

 

- Sheng-yen, Un Sapere sottile, Ed. Mondadori, 2001

Zen Rinzai

 

- Engaku Taino, L’Illuminazione nella vita quotidiana, Ed. Mediterranee

 

* Sách Thiền phái Tào Động (Zen Soto) PG Nhật Bản

 

- S. Suzuki, Mente Zen mente di principiante, Ed. Ubaldini

 

- Daido Strumia, Presenza Consapevole, Ed. Psiche

 

- Carlo Tetsugen Serra, Zen. Religione, filosofia, stile di vita, Ed. Fabbri

 

* Sách truyền thống Phật giáo Nam truyền (Tradizione Theravada)

 

- Achaan Chah, Il Sapore della Libertà, Ed. Ubaldini

 

- Achaan Sumedho, La Mente e la Via, Ed. Ubaldini

 

- Sayagyi U Ba Khin, Il Tempo della Meditazione Vipassana è arrivato, Ed. Ubaldini

 

* Sách truyền thống PG Kim Cương thừa (Tradizione Vajrayāna)

 

- Lama Yesce, Buddhismo in occidente, Ed. Chiara Luce

 

- Kyabje Kalu Rimpoche, La via del Buddha nella tradizione tibetana, Ed. Amrita, 2000

 

- Tenzin Ghiatso, XIV° Dalai Lama, L’apertura dell’occhio della saggezza, Ed. Ubaldini

 

- G. Tucci, Le religioni del Tibet, Mondadori, 1997

 

* Sách trường phái Scuola Ghelupa (Scuola Ghelupa) thuộc PG Mật tông

 

- Tenzin Ghiatso, XIV° Dalai Lama, Il sentiero per la liberazione, Ed. Chiara Luce

 

- Thamthog Rimpoche, La Saggezza di Buddha, Ed. Mondadori

 

- Lama Yesce e Lama Zopa Rimpoce, Il potere della saggezza, Ed. Chiara Luce

 

- Löhr Sabine, Il Dalai Lama. La sua vita, il suo pensiero, Ed. Lindau

 

* Sách trường phái (Scuola Kaghiupa) thuộc PG Mật tông

 

- Wang Ch’Ug Dor Je (IX Karmapa), a cura di Alexander Berzin, La Mahamudra che elimina il buio dell’ignoranza, una guida al Grande Sigillo e al Guru Yoga, Ed. Ubaldini, 1985

 

- SGam.Po.Pa, a cura di Herbert V. Guenter, Il Prezioso Ornamento di Liberazione, Ed. Ubaldini, 1978

 

* Sách trường phái Scuola Nimapa – Dzo Chen thuộc PG Mật tông

 

- Namkhai Norbu, Dzog Chen – Lo stato di autoperfezione, Ed. Ubaldini

 

- Tenzin Ghiatso, XIV° Dalai Lama, Dzog Chen, Ed. Amrita

 

- Dialogo Interreligioso o con la Scienza

 

- Tenzin Ghiatso, XIV° Dalai Lama, Incontro con Gesù, Ed. Mondadori

 

- Tenzin Ghiatso, XIV° Dalai Lama, Ponti Sottili, Ed. Neri Pozza

      

- Lama Yesce, Il Suono del Silenzio, Ed. Chiara Luce

 

Tiểu sử

Trưởng lão Vincenzo Piga

(1921-1998)

(Người sáng lập Liên minh Phật giáo Italia)

 Trưởng lão cư sĩ Vincenzo Piga 1

Trưởng lão cư sĩ Vincenzo Piga sinh năm 1921 tại Thiene, một thành phố và hài thuộc tỉnh Vicenza, phía bắc nước Ý, nằm cách Venice khoảng 75 km về phía tây và cách Milan 200 km về phía đông. Thành phố có một khu vực công nghiệp năng động và sôi động, bao gồm chủ yếu là các công ty vừa và nhỏ.

 

Ông từng tham gia Đệ nhị Thế chiến, cuộc chiến khốc liệt nhất lịch sử nhân loại. Cuộc chiến giữa phe Đồng minh, dẫn đầu là Anh, Liên Xô, Mỹ và phe Trục phát xít gồm các thế lực chính Đức, Italy và Nhật Bản là cuộc chiến rộng và thảm khốc nhất trong lịch sử nhân loại. Ông được thực tập quân sự tại Đức và Ba Lan, bởi do từ chối chiến đấu với quân đội Đức cho nên ông bị đi tù. Trong các trại tù, ông luôn là một điểm tham khảo và tổ chức các Ủy ban trong các tù nhân, để có được điều kiện sống tốt hơn. Ông là đại diện công dân Italia tại Ủy ban Kinh tế và Xã hội của Liên minh châu Âu. Phải mất một thời gian dài để phê duyệt các quy tắc cho việc thay thế Amiăng trong các tòa nhà. Tại Brussels, Thủ đô của Vương quốc Bỉ, ông đã tiếp nhận ánh sáng từ bi trí tuệ đạo Phật tự do bình đẳng, và cống hiến hết đời mình cho Đạo pháp Dân tộc Italia.

 

Ông là người sáng lập Viện Istituto Lama Tzong Khapa (ILTK)  ở Pomaia, một làng ở Tuscany, tại nước Italy.

 

Năm 1982, ông sáng lập tạp chí “Pāramitā - Quaderni di Buddhaismo” và Quỹ Di Lặc (Fondazione Maitreya, Viện Văn hóa Phật giáo). Sau 18 năm, đã mang lại sức sống hùng dũng cho chính pháp Phật đà. Ông là người sáng lập the Italian Buddhist Union - Unione Buddhista Italiana: UBI), thuộc Liên đoàn Phật giáo Âu châu (the European Buddhist Union) tại  Milan năm 1985, và được Tổng Thống Ý chấp nhận năm 1991. Ông đã không biết mệt mõi trong Phật sự để công nhận UBI là một cơ quan tôn giáo được chính phủ công nhận, và để bắt đầu các cuộc đàm phán cho thỏa thuận với nhà nước Cộng hòa Italia theo điều 8 của Hiến pháp.

 Trưởng lão cư sĩ Vincenzo Piga 2

Cách tiếp cận Phật pháp của Trưởng lão cư sĩ Vincenzo Piga luôn nằm trong tầm nhìn mà ông gọi là “Nhất Phật thừa” (Ekayāna), một trong những tư tưởng nổi bật hàm chứa trong kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa, theo Đức Phật dạy là tư tưởng duy nhất Phật thừa. Ngoài ra, Đức Phật còn nhấn mạnh rằng mặc dù có nhất Phật thừa, nhưng Ngài lại thuyết tam thừa; nghĩa là Đức Phật dùng phương tiện đưa ra Tam thừa để dẫn dắt đến cứu cánh Nhất Phật thừa, trong đó các tông phái Phật giáo khác nhau cùng đối thoại trong hài hòa, tìm thấy sự thống nhất cơ bản ngay cả khi không đồng nhất. Sự khác biệt giữa "thống nhất và đa dạng" và "thống nhất trong đa dạng" (Unity in Diversity) là lập trường mà ông đề xuất, và sau đó được sử dụng cho một Đại hội quan trọng của Liên minh Phật giáo châu Âu vào năm 1992, một tuyên ngôn về tiêu đề cho truyền thống Phật giáo châu Âu, có thể nói Trưởng lão cư sĩ Vincenzo Piga là một trong những người tiên phong trong việc xiển dương giáo nghĩa “Nhất Phật thừa” tại Italia và châu Âu.

 

Sau đệ nhị thế chiến, ông đã tiếp nhận ánh sáng từ bi trí tuệ đạo Phật, từ đó ông vừa thực nghiệm vừa phát huy giá trị đạo nhiệm mầu và hạnh Đức Như Lai, trong sự nghiệp hoằng dương chính pháp Phật đà tại một quốc gia 96% Thiên Chúa giáo. Phật sự viên thành, ông thanh thản thả hồn về cõi Phật, nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng vào ngày 14 tháng 11 năm 1998. Hưởng thọ 77 tuổi.

 

Một cuộc hội thảo tại Đại hội Liên minh Phật giáo châu Âu (EBU) tại Berlin, thủ đô Đức quốc vào ngày 27 tháng 9 năm 1992, với sự tham gia của hơn 2.000 đại biểu, Đại hội này là sự kiện EBU lớn nhất từ trước đến nay, phiên chuyên đề gồm các vị đại biểu: Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Thiền sư tiến sĩ Rawata Dahamma và Trưởng lão Hòa thượng Urgyen Sangharakshita.

 

Hình: Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Thiền sư tiến sĩ Rawata Dahamma và Trưởng lão Hòa thượng Urgyen Sangharakshita.

 

- Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một thiền sư Việt Nam, giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu, nhà hoạt động xã hội, và người vận động cho hòa bình, người lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn thứ hai ở phương Tây chỉ sau Đức Đạt Lai Lạt Ma, người đưa ra khái niệm và thực hiện "Phật giáo dấn thân" (engaged Buddhism).

 

- Thiền sư tiến sĩ Rawata Dahamma (1929-2004), vị tăng sĩ Phật giáo Myanmar, nổi tiếng trong nghiên cứu và giảng dạy Tạng Vi Diệu pháp (Abhidhamma), người ủng hộ hòa bình, hòa giải dân tộc Myanmar.

 

- Trưởng lão Hòa thượng Urgyen Sangharakshita (1925-2018, tác giả, nhà nghiên cứu Phật giáo nổi tiếng người Anh. Hòa thượng là người sáng lập Phật giáo Triratna và Cộng đồng (The Triratna Buddhist Order and community); thành lập Hội Phật giáo hữu phương Tây (The Friends of the Western Buddhist Order)

 

Tại phiên chuyên đề hội thảo, sự kiện độc đáo này, đại diện bốn vị lãnh đạo Phật giáo từ bốn truyền thống Phật giáo khác nhau, thảo luận về các chủ đề hấp dẫn như:

 

- “Mối quan hệ giữa chư tăng và Phật tử” (the relationship between the monks and the laity);

                    

- “Tầm quan trọng của Tạng Vi Diệu Pháp” (the importance of the Abhidhamma);

 

- “Hành động vô ngã trong xã hội Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Đại thừa” (Buddhist social      

    action, anatta,Theravada and Mahayana); 

 

- “Hình Tượng Phối Ngẫu Trong Kim Cang Thừa, Phật giáo Mật tông” (and Tantric sexual imagery).

 

Lip:

 

“Thuyết trình triết lý Tính Không và Từ Bi” (Emptiness and Compassion)

 

https://vimeo.com/26795496

 

Thích Vân Phong

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/02/2021(Xem: 5208)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5632)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4496)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5084)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 4645)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5342)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
14/02/2021(Xem: 4833)
Phật giảng thuyết có ba phương cách: a. Giảng trực tiếp như các kinh đạo Phật Nguyên thủy, b. Giảng bằng phủ định, từ chối là không và phủ định hai lần là xác định tuyệt đối. c. Giảng bằng biểu tượng, đưa câu chuyện cánh hoa sen hay viên ngọc trong túi người ăn mày để biểu tượng hoá ý nghĩa sâu xa của kinh. Phương cách thứ ba này là kinh Pháp Hoa. Có nhiều biểu tượng nhưng nổi bật nhất là cánh hoa sen là biểu tượng kinh Pháp Hoa.
10/02/2021(Xem: 9543)
Long Khánh là một thị xã ven Đô, Phật giáo tuy không sung túc như các Tỉnh miền Trung Nam bộ, nhưng sớm có những ngôi chùa khang trang trước 1975, do một số chư Tăng miền Trung khai sơn lập địa. Hiện nay Long Khánh có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Hiển Mật hay còn gọi là chùa Ruộng Lớn tọa lạc tại Thị xã Long Khánh, chùa Huyền Trang, tọa lạc tại ấp Bàu Cối, xã Bảo Quang,.…Nhưng điều đáng nói là một ngôi Tam Bảo hình thành trong vòng 5 năm,khá bề thế. Qua tổng thể kiến trúc và xây dựng, không ai ngờ hoàn hảo trong thời gian cực ngắn, đó là Tịnh xá Ngọc Xuân, do sư Giác Đăng,đệ tử HT Giác Hà, hệ phái Khất sĩ, thuộc giáo đoàn 5 của Đức thầy Lý.
08/02/2021(Xem: 4931)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4159)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]