Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khái lược Liên minh Phật giáo Italia

01/05/202019:04(Xem: 6717)
Khái lược Liên minh Phật giáo Italia

Khái lược Liên minh Phật giáo Italia

 Logo UBI 1

Liên minh Phật giáo Italia (L'Unione Buddhista Italiana, UBI) có gần 60 hội đoàn là thành viên của Liên đoàn. Liên hội này là một tổ chức tôn giáo, văn hóa và từ thiện xã hội. Liên hội không đại diện cho một tông phái nào, liên hội tập họp mọi hoạt động  để bảo tồn và tôn trọng mọi tông phái.

 

Phật giáo là tôn giáo thứ ba sau Thiên chúa giáo và Hồi giáo. Có hơn 100 nghìn Phật tử, chiếm 0, 2% dân số. Tuy nhiên mỗi ngày một gia tăng.

 

Liên minh Phật giáo Italia (L'Unione Buddhista Italiana, UBI) được thành lập tại Mialn vào năm 1985 bởi các trung tâm Phật giáo của tất cả các truyền thống Phật giáo hiện diện tại Italia, những thành viên Phật giáo gồm các truyền thống khác nhau cảm thấy cần phải thực thi ý nghĩa Tăng già, phải tôn trọng Lục hòa Kỉnh pháp, luôn đoàn kết, hài hòa trong hợp tác, như đã xảy ra ở các quốc gia châu Âu khác (Pháp, Đức,Áo, Hà Lan, Tây Ban Nha, v.v. . .).

 

Liên minh Phật giáo Italia (L'Unione Buddhista Italiana, UBI) bao gồm các tông phái Theravâda, Mahâyâna, Vajrayâna), thành lập năm 1985 và được quốc gia công nhận là một cơ quan tôn giáo có tư cách pháp nhân vào tháng 1 năm 1991, có trụ sở chính tại Rome. Liên đoàn là thành viên của Liên đoàn Phật giáo Âu Châu, có hơn 70 nghìn Phật tử, trong đó có 50 nghìn người Ý.

 

Liên minh Phật giáo Italia (L'Unione Buddhista Italiana, UBI) là một cơ quan tổ chức Phật giáo được công nhận bởi Nghị định của Tổng thống nước thứ 8 Cộng hòa Italia Francesco Cossiga ký ngày 3/1/1991, tập hợp các trung tâm, tổ chức, cơ sở tự viện Phật giáo thuộc các truyền thống Phật giáo, Nguyên thủy, Đại thừa và Kim Cương thừa. Tuân theo Điều 8 của Hiến pháp nước Cộng hòa Italia, để thiết lập quan hệ chính thức với Chính phủ Italia và bảo vệ các quyền của chư tăng và Phật giáo đồ, cả công dân Italia và Phật giáo từ các quốc gia châu Á và cư dân của Quốc gia Italia, UBI đã đạt được sự thỏa thuận phê chuẩn của Chính phủ Cộng hòa Italia vào ngày 11 tháng 12 năm 2012.

 

Các trung tâm Phậ giáo thuộc các truyền thống Phật giáo Nguyên thủy (Theravada), Phật giáo Đại thừa (Mahayana), Tông phái Thiền Phật giáo Hàn Quốc, một phần của thiền phái Thiên Thai, Phật giáo Kim Cương thừa gồm các dòng Phật giáo Mật tông Gelugpa, Kagyupa, Nigmapa và Sakyapa hiện đang là một phần của UBI.

 

Tổ chức UBI được lãnh đạo bởi một ban Giám đốc, trong đó tất cả các truyền thống Phật giáo đều hiện diện tại Italia.

 

Tổ chức UBI cũng đã liên kết với Liên minh Phật giáo châu Âu (European Buddhist Union, EBU)

 

Lịch sử:

 

Theo lịch sử Liên minh Phật giáo Italia (L'Unione Buddhista Italiana, UBI) bắt đầu khởi xướng từ năm 1984 do sáng kiến của Trưởng lão cư sĩ Vincenzo Piga (1921-1998), một trong những nhân vật chính của dự thảo kế hoạch, dự án và sáng lập một số trung tâm Phật giáo, sau đó thắp sáng ánh đạo nhiệm mầu và hạnh đức Như Lai, từ bi trí tuệ, tự do bình đẳng lan tỏa khắp nơi trên lãnh thổ Italia (một quốc gia theo Công giáo khoảng 96%), bắt đầu gặp gỡ để thành lập một hiệp hội, thực tế hóa những trung tâm Phật giáo khác nhau tại Italia. Đạo luật đề xuất phát sinh từ các cuộc họp này đã được ký kết vào ngày 17 tháng 4 năm 1985 tại thành phố Milan, miền bắc Italia bởi 9 trung tâm Phật giáo.

 

Mục tiêu là thành lập một Hiệp hội các trung tâm Phật giáo thuộc nhiều truyền thống khác nhau, có thể là điểm liên lạc duy nhất giữa Nhà nước và các tổ chức Phật giáo, năm sau 9 trung tâm khác đã được t tiếp tục nhân rộng dần rất nhiều đến mức UBI ngay nay đã có gần 60 trung tâm Phật giáo.

 

Từ nguồn Liên minh Phật giáo Italia (UBI) đã đặt ra như là một Liên hiệp các trung tâm Phật giáo và nhằm mục đích hỗ trợ và đại diện cho toàn bộ phong trào Phật giáo trong tất cả các giao dịch lịch sử. Mục đích của nó chủ yếu là tập hợp và hỗ trợ các trung tâm Phật giáo Italia khác nhau, góp phần phổ biến chính pháp Phật đà, và hiện thực hóa giáo lý từ bi trí tuệ trong đời sống thường nhật, phát triển sự hợp tác giữa các trường phái Phật giáo khác nhau, và khuyến khích đối thoại trên tinh thần Lục hòa Kỉnh pháp với các cộng đồng tôn giáo khác với văn hóa và các học giả, về các chủ đề quan tâm chung, tăng cường quan hệ với Liên minh Phật giáo châu Âu (EBU), Liên hữu Phật giáo Thế giới (World Friendship of Buddhists, WFB) và các tổ chức Phật giáo nước ngoài và quốc tế khác.

 

Từ năm 1987, UBI là một phần của Liên minh Phật giáo châu Âu.

 

Trong những năm tiếp theo, UBI cam kết sẽ có được sự công nhận hợp pháp với tư cách là Cơ quan tôn giáo và ký thỏa thuận với Nhà nước Italia, theo yêu cầu của Điều 8 của Hiến pháp nước Cộng hòa Italia.

 

Vào ngày 3 tháng 1 năm 1991, với một Nghị định của Tổng thống nước thứ 8 Cộng hòa, Italia Francesco Cossiga, sau đó được điều chỉnh vào ngày 15 tháng 6 năm 1993, UBI đã được công nhận hợp pháp là một tổ chức Phật giáo. Mặc dù các cuộc đàm phán với Chính phủ về thỏa thuận có một tiến trình khó khăn bởi bàn bạc thảo luận có thể bắt đầu cụ thể vào năm 1998, nhưng sự kiện đã được ký kết lần đầu tiên với Chính phủ nước Cộng hòa Italia vào năm 2000 và sau đó vào năm 2007, cuối cùng thỏa thuận đã được Quốc hội nước Cộng hòa Italia phê duyệt vào năm 2012 (Luật số 245 ngày 31/12/2012), nhờ vào sự thu hút và phổ biến của các phương tiện truyền thông mà các chuyến công du viếng thăm và các cuộc họp công khai của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã diễn ra trong những năm này. Thỏa thuận điều này được phê duyệt cùng với Liên minh Ấn Độ giáo và Italia là một điều quan trọng mới lạ, bởi lần đầu tiên Nhà nước Italia đã ký một thỏa thuận với các truyền thống không đến từ chi nhánh Do Thái-Kitô giáo. Một luật khung về tự do tôn giáo đã được trình bày nhiều lần trong các cơ quan lập pháp cuối cùng nhưng rất ít may mắn, mặc dù nhu cầu của nó ngày càng rõ ràng với sự thay đổi của xã hội Italia về việc thúc đẩy toàn cầu hóa, và thay đổi các diễn biến về quốc tế.

 

Từ năm 2014, đã chỉ ra rằng Liên minh Phật giáo Italia là tổ chức nhận 8 phần nghìn tờ khai thuế của các cá nhân mà UBI sẽ có thể tài trợ cho các dự án để hỗ trợ việc sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng tôn giáo và phúc lợi xã hội, nhân đạo cho số tiền được chỉ định trực tiếp. Trong khi các khoản tiền còn lại, sẽ đến từng phần không được chỉ định, sẽ được dành riêng cho các dự án nhân đạo ở Italia và nước ngoài, cũng có thể được đề xuất bởi các hiệp hội, cơ quan và tổ chức phi Phật giáo. Phật giáo đại diện bởi UBI được đặt trưng bởi tinh thần cởi mở và đối thoại mạnh mẽ với các tôn giáo khác, với thế giới Công giáo mà nó đã có và vẫn còn mối quan hệ trực tiếp thường xuyên, đặc biệt là với Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn hiện diện tại các thành phố lớn của Italia.

 Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Thiền sư tiến sĩ Rawata Dahamma và Trưởng lão Hòa thượng Urgyen Sangharakshita

Hoạt động thường niên:

 

Liên minh Phật giáo Italia (UBI) tổ chức kỷ niệm Vesak thường niên luân phiên tại một thành phố khác nhau của Italia, với các nghi lễ và hội nghị tôn giáo. Lãnh đạo UBI cũng tham gia vào các cuộc họp và hội nghị với các giáo phái tôn giáo bạn, các trường đại học, các tổ chức và tổ chức của Italia và châu Âu.

 

UBI cũng hiện diện khắp nơi trong các trường học tại Italia, với các hoạt động thông tin về tôn giáo, triết học Phật giáo với các hội thảo và khoảnh khắc thực hành thiền định Phật giáo. Hơn nữa, nhờ 8 phần nghìn Quỹ và phối hợp với các tổ chức thuộc Xã hội dân sự như một khu vực thứ ba (Organizzazioni del Terzo Settore) trong xã hội, UBI hỗ trợ cho các dự án nhân đạo và phúc lợi xã hội tại Italia và nước ngoài, nhằm vào các nhóm dân số khốn khổ mong manh nhất và để khẳng định quyền con người và quyền công dân. Sự hỗ trợ cũng hướng về dự án thúc đẩy quan tâm và tôn trọng môi trường, thúc đây văn hóa bền vững của con người và xã hội, quyền hoạt động và hòa nhập cộng đồng xã hội đối với công dân, người Italia và người nước ngoài, và cho sự phát triển kinh tế xanh và bền vững theo “Kinh tế học Phật giáo, tiếng Italia: economia Buddhista, tiếng Anh: Buddhist economics” là một cách tiếp cận của Phật giáo đối với kinh tế học. Kinh tế học Phật giáo khảo sát đặc điểm tâm lý của trí óc con người, và những ưu tư, khát vọng, và cảm xúc vốn thúc đẩy hoạt động kinh tế. Cách hiểu về kinh tế học của Phật giáo nhắm đến việc làm rõ những gì là có hại và những gì là có ích trong những hoạt động của con người liên quan đến sản xuất và tiêu thụ, và nhất là cố gắng làm cho con người trưởng thành về mặt đạo đức. Bởi lý do này, họ hoạt động đối thoại với các đối tượng khác nhau trong lĩnh vực nghiên cứu, với các trường đại học, cơ quan, tổ chức, tổ chức của Italia và quốc tế để phát triển các hoạt động, dự án hài hòa với các giá trị của nó và có khả năng tạo ra một mô hình xã hội, văn hóa và con người mới.

 

Nhân dịp chào mừng kỷ niệm Vesak PL. 2564, vào ngày 17/3/2020. Liên minh Phật giáo Italia (UBI) đã phân bố 3 triệu euro để phân bổ trong việc ứng phó với tình trạng khẩn cấp bởi đại dịch Virus corona hiểm ác và để trả lại niềm tin mà nhân dân Italia đã thể hiện 8 phần nghìn: 1,5 triệu euro được chi cho việc Bảo vệ dân sự và 1,5 triệu euro đã đến với một Quỹ để hỗ trợ cho các hoạt động dịch bệnh cho những đối tượng bất hạnh khốn khổ mong manh nhất.

 

Tài liệu tham khảo được đọc nhiều nhất tại thư viện trụ sở UBI:

 

Thư mục về Phật giáo là vô cùng rộng lớn, đặc biệt một trong Anh ngữ. Đây chỉ là một vài tiêu đề huớng dẫn người lần đầu tiên đọc tiếp cận Phật giáo. Thư mục sách Phật giáo được cấu trúc để chỉ ra một số tiêu đề giới thiệu chung và giới thiệu về truyền thống cá nhân.

 

Cuối cùng, IBU khuyên những người quan tâm đến việc đào sâu một truyền thống cụ thể, nên trực tiếp đến trung tâm IBU của truyền thống cụ thể đó.

 

Giới thiệu về Phật giáo và lịch sử Phật giáo: Các văn bản cơ bản:

 

- Thich Nhat Hanh, Vita di Siddharta il Buddha, Ed. Ubaldini

 

- Walpola Rahula, L’insegnamento del Buddha, Ed. Paramita, Roma, 1994

 

- Tenzin Ghiatso, XIV° Dalai Lama, La Via della Liberazione, Ed. Pratiche

 

- Schumann, Il Buddha storico, Ed. Salerno

 

- Tradizione Ch’an e Zen

 

* Sách Thiền (Ch’an) PG Trung Hoa

 

- Sheng-yen, Un Sapere sottile, Ed. Mondadori, 2001

Zen Rinzai

 

- Engaku Taino, L’Illuminazione nella vita quotidiana, Ed. Mediterranee

 

* Sách Thiền phái Tào Động (Zen Soto) PG Nhật Bản

 

- S. Suzuki, Mente Zen mente di principiante, Ed. Ubaldini

 

- Daido Strumia, Presenza Consapevole, Ed. Psiche

 

- Carlo Tetsugen Serra, Zen. Religione, filosofia, stile di vita, Ed. Fabbri

 

* Sách truyền thống Phật giáo Nam truyền (Tradizione Theravada)

 

- Achaan Chah, Il Sapore della Libertà, Ed. Ubaldini

 

- Achaan Sumedho, La Mente e la Via, Ed. Ubaldini

 

- Sayagyi U Ba Khin, Il Tempo della Meditazione Vipassana è arrivato, Ed. Ubaldini

 

* Sách truyền thống PG Kim Cương thừa (Tradizione Vajrayāna)

 

- Lama Yesce, Buddhismo in occidente, Ed. Chiara Luce

 

- Kyabje Kalu Rimpoche, La via del Buddha nella tradizione tibetana, Ed. Amrita, 2000

 

- Tenzin Ghiatso, XIV° Dalai Lama, L’apertura dell’occhio della saggezza, Ed. Ubaldini

 

- G. Tucci, Le religioni del Tibet, Mondadori, 1997

 

* Sách trường phái Scuola Ghelupa (Scuola Ghelupa) thuộc PG Mật tông

 

- Tenzin Ghiatso, XIV° Dalai Lama, Il sentiero per la liberazione, Ed. Chiara Luce

 

- Thamthog Rimpoche, La Saggezza di Buddha, Ed. Mondadori

 

- Lama Yesce e Lama Zopa Rimpoce, Il potere della saggezza, Ed. Chiara Luce

 

- Löhr Sabine, Il Dalai Lama. La sua vita, il suo pensiero, Ed. Lindau

 

* Sách trường phái (Scuola Kaghiupa) thuộc PG Mật tông

 

- Wang Ch’Ug Dor Je (IX Karmapa), a cura di Alexander Berzin, La Mahamudra che elimina il buio dell’ignoranza, una guida al Grande Sigillo e al Guru Yoga, Ed. Ubaldini, 1985

 

- SGam.Po.Pa, a cura di Herbert V. Guenter, Il Prezioso Ornamento di Liberazione, Ed. Ubaldini, 1978

 

* Sách trường phái Scuola Nimapa – Dzo Chen thuộc PG Mật tông

 

- Namkhai Norbu, Dzog Chen – Lo stato di autoperfezione, Ed. Ubaldini

 

- Tenzin Ghiatso, XIV° Dalai Lama, Dzog Chen, Ed. Amrita

 

- Dialogo Interreligioso o con la Scienza

 

- Tenzin Ghiatso, XIV° Dalai Lama, Incontro con Gesù, Ed. Mondadori

 

- Tenzin Ghiatso, XIV° Dalai Lama, Ponti Sottili, Ed. Neri Pozza

      

- Lama Yesce, Il Suono del Silenzio, Ed. Chiara Luce

 

Tiểu sử

Trưởng lão Vincenzo Piga

(1921-1998)

(Người sáng lập Liên minh Phật giáo Italia)

 Trưởng lão cư sĩ Vincenzo Piga 1

Trưởng lão cư sĩ Vincenzo Piga sinh năm 1921 tại Thiene, một thành phố và hài thuộc tỉnh Vicenza, phía bắc nước Ý, nằm cách Venice khoảng 75 km về phía tây và cách Milan 200 km về phía đông. Thành phố có một khu vực công nghiệp năng động và sôi động, bao gồm chủ yếu là các công ty vừa và nhỏ.

 

Ông từng tham gia Đệ nhị Thế chiến, cuộc chiến khốc liệt nhất lịch sử nhân loại. Cuộc chiến giữa phe Đồng minh, dẫn đầu là Anh, Liên Xô, Mỹ và phe Trục phát xít gồm các thế lực chính Đức, Italy và Nhật Bản là cuộc chiến rộng và thảm khốc nhất trong lịch sử nhân loại. Ông được thực tập quân sự tại Đức và Ba Lan, bởi do từ chối chiến đấu với quân đội Đức cho nên ông bị đi tù. Trong các trại tù, ông luôn là một điểm tham khảo và tổ chức các Ủy ban trong các tù nhân, để có được điều kiện sống tốt hơn. Ông là đại diện công dân Italia tại Ủy ban Kinh tế và Xã hội của Liên minh châu Âu. Phải mất một thời gian dài để phê duyệt các quy tắc cho việc thay thế Amiăng trong các tòa nhà. Tại Brussels, Thủ đô của Vương quốc Bỉ, ông đã tiếp nhận ánh sáng từ bi trí tuệ đạo Phật tự do bình đẳng, và cống hiến hết đời mình cho Đạo pháp Dân tộc Italia.

 

Ông là người sáng lập Viện Istituto Lama Tzong Khapa (ILTK)  ở Pomaia, một làng ở Tuscany, tại nước Italy.

 

Năm 1982, ông sáng lập tạp chí “Pāramitā - Quaderni di Buddhaismo” và Quỹ Di Lặc (Fondazione Maitreya, Viện Văn hóa Phật giáo). Sau 18 năm, đã mang lại sức sống hùng dũng cho chính pháp Phật đà. Ông là người sáng lập the Italian Buddhist Union - Unione Buddhista Italiana: UBI), thuộc Liên đoàn Phật giáo Âu châu (the European Buddhist Union) tại  Milan năm 1985, và được Tổng Thống Ý chấp nhận năm 1991. Ông đã không biết mệt mõi trong Phật sự để công nhận UBI là một cơ quan tôn giáo được chính phủ công nhận, và để bắt đầu các cuộc đàm phán cho thỏa thuận với nhà nước Cộng hòa Italia theo điều 8 của Hiến pháp.

 Trưởng lão cư sĩ Vincenzo Piga 2

Cách tiếp cận Phật pháp của Trưởng lão cư sĩ Vincenzo Piga luôn nằm trong tầm nhìn mà ông gọi là “Nhất Phật thừa” (Ekayāna), một trong những tư tưởng nổi bật hàm chứa trong kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa, theo Đức Phật dạy là tư tưởng duy nhất Phật thừa. Ngoài ra, Đức Phật còn nhấn mạnh rằng mặc dù có nhất Phật thừa, nhưng Ngài lại thuyết tam thừa; nghĩa là Đức Phật dùng phương tiện đưa ra Tam thừa để dẫn dắt đến cứu cánh Nhất Phật thừa, trong đó các tông phái Phật giáo khác nhau cùng đối thoại trong hài hòa, tìm thấy sự thống nhất cơ bản ngay cả khi không đồng nhất. Sự khác biệt giữa "thống nhất và đa dạng" và "thống nhất trong đa dạng" (Unity in Diversity) là lập trường mà ông đề xuất, và sau đó được sử dụng cho một Đại hội quan trọng của Liên minh Phật giáo châu Âu vào năm 1992, một tuyên ngôn về tiêu đề cho truyền thống Phật giáo châu Âu, có thể nói Trưởng lão cư sĩ Vincenzo Piga là một trong những người tiên phong trong việc xiển dương giáo nghĩa “Nhất Phật thừa” tại Italia và châu Âu.

 

Sau đệ nhị thế chiến, ông đã tiếp nhận ánh sáng từ bi trí tuệ đạo Phật, từ đó ông vừa thực nghiệm vừa phát huy giá trị đạo nhiệm mầu và hạnh Đức Như Lai, trong sự nghiệp hoằng dương chính pháp Phật đà tại một quốc gia 96% Thiên Chúa giáo. Phật sự viên thành, ông thanh thản thả hồn về cõi Phật, nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng vào ngày 14 tháng 11 năm 1998. Hưởng thọ 77 tuổi.

 

Một cuộc hội thảo tại Đại hội Liên minh Phật giáo châu Âu (EBU) tại Berlin, thủ đô Đức quốc vào ngày 27 tháng 9 năm 1992, với sự tham gia của hơn 2.000 đại biểu, Đại hội này là sự kiện EBU lớn nhất từ trước đến nay, phiên chuyên đề gồm các vị đại biểu: Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Thiền sư tiến sĩ Rawata Dahamma và Trưởng lão Hòa thượng Urgyen Sangharakshita.

 

Hình: Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Thiền sư tiến sĩ Rawata Dahamma và Trưởng lão Hòa thượng Urgyen Sangharakshita.

 

- Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một thiền sư Việt Nam, giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu, nhà hoạt động xã hội, và người vận động cho hòa bình, người lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn thứ hai ở phương Tây chỉ sau Đức Đạt Lai Lạt Ma, người đưa ra khái niệm và thực hiện "Phật giáo dấn thân" (engaged Buddhism).

 

- Thiền sư tiến sĩ Rawata Dahamma (1929-2004), vị tăng sĩ Phật giáo Myanmar, nổi tiếng trong nghiên cứu và giảng dạy Tạng Vi Diệu pháp (Abhidhamma), người ủng hộ hòa bình, hòa giải dân tộc Myanmar.

 

- Trưởng lão Hòa thượng Urgyen Sangharakshita (1925-2018, tác giả, nhà nghiên cứu Phật giáo nổi tiếng người Anh. Hòa thượng là người sáng lập Phật giáo Triratna và Cộng đồng (The Triratna Buddhist Order and community); thành lập Hội Phật giáo hữu phương Tây (The Friends of the Western Buddhist Order)

 

Tại phiên chuyên đề hội thảo, sự kiện độc đáo này, đại diện bốn vị lãnh đạo Phật giáo từ bốn truyền thống Phật giáo khác nhau, thảo luận về các chủ đề hấp dẫn như:

 

- “Mối quan hệ giữa chư tăng và Phật tử” (the relationship between the monks and the laity);

                    

- “Tầm quan trọng của Tạng Vi Diệu Pháp” (the importance of the Abhidhamma);

 

- “Hành động vô ngã trong xã hội Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Đại thừa” (Buddhist social      

    action, anatta,Theravada and Mahayana); 

 

- “Hình Tượng Phối Ngẫu Trong Kim Cang Thừa, Phật giáo Mật tông” (and Tantric sexual imagery).

 

Lip:

 

“Thuyết trình triết lý Tính Không và Từ Bi” (Emptiness and Compassion)

 

https://vimeo.com/26795496

 

Thích Vân Phong

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/08/2010(Xem: 7608)
Sứ mệnh doanh nghiệp là hợp tác để cùng phát triển, cùng có lợi. Hợp tác mà một bên thắng và một bên thua giống như hình thức bóc lột thời phong kiến hay phạm giới ăn cắp. Trong một trò chơi mà ai cũng thắng thì ra về ai cũng thấy vui. Sứ mệnh doanh nghiệp là tái lập truyền thông giữa người với người, người và cộng đồng, người và thiên nhiên. Sự giao tiếp và truyền thông giữa cấp trên và cấp dưới, giữa các phòng ban, giữa các nhóm làm việc và giữa môi trường bên trong và môi trường bên ngoài là nhiệm vụ nòng cốt của doanh nghiệp.
28/08/2010(Xem: 61654)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 6783)
Tiền bạc của cải là phương tiện trao đổi để sử dụng hữu ích trong mối quan hệ của đời sống như ăn uống, ngủ nghỉ là nhu cầu cần thiết của con người. Về cơ bản, con người là chúng sinh cõi dục, do dục mà được sinh ra và hiện hữu, con người cần có các nhu cầu ăn, mặc, ở, bệnh, nghỉ ngơi, giải trí, hoạt động đi lại, giao tiếp và thưởng thức các cảm xúc khoái lạc giác quan v.v…Con người không thể sống mà không ăn uống, ngủ nghỉ, vui chơi giải trí, thư giãn sau khi làm việc.
28/08/2010(Xem: 10365)
Khi sinh ra, chúng tôi lên tàu và gặp cha mẹ của chúng tôi, và chúng tôi tin rằng họ sẽ luôn luôn đi về phía chúng tôi. Tuy nhiên, tại một số trạm cha mẹ của chúng tôi sẽ bước xuống từ xe lửa, để lại cho chúng tôi trong hành trình này một mình. Khi thời gian trôi qua, những người khác sẽ lên tàu; và họ sẽ có ý nghĩa anh chị em của chúng tôi là, bạn bè, trẻ em, và thậm chí cả tình yêu của cuộc sống của chúng tôi.
28/08/2010(Xem: 58383)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
28/08/2010(Xem: 8384)
Trước hết, tôi chân thành cảm tạ Hội đồng Điều hành Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế đã dành cho tôi vinh dự đọc một bài thuyết trình trong buổi lễ mãn khóa long trọng này. Tuy dạy học ở xa, tôi vẫn luôn luôn gần gũi Học viện, tưởng như đây là nơi gắn bó nhất với cuộc đời của mình. Ở đây, và chỉ ở đây, tôi mới tìm được khung cảnh đáp ứng đồng thời hai nhu cầu của tôi - nhu cầu tri thức và nhu cầu đạo đức. Trong các trường đại học mà tôi dạy ở xa, tôi có cảm tưởng như chỉ sống một nửa. Không khí mà tôi thở trong Học viện cho tôi được sống vẹn toàn cả hai nhu cầu. Tôi mong được sống vẹn toàn như vậy trong bài thuyết trình này.
28/08/2010(Xem: 8462)
Nếu chúng ta thọ năm giới, và khuyến khích mọi người trong gia đình ta thọ năm giới, thì ngày đó là ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời ta, vì gia đình ta sẽ được duy trì, và cuộc sống gia đình đơn giản, tốt đẹp sẽ ảnh hưởng đến những gia đình khác trong xã hội.
27/08/2010(Xem: 19326)
1. Dạy con trẻ vạn lời hay, không bằng nửa ngày làm gương, làm mẫu 2. Cha mẹ chỉ biết cho, chẳng biết đòi; Con cái thích vòi mà không biết trả 3. Dâu, rể tốt cha mẹ được đề cao; Con cái hỗn hào đứt mười khúc ruột 4. Cha mẹ dạy điều hay, kêu lắm lời, bước chân vào đời ngớ nga ngớ ngẩn 5. Cha nỡ coi khinh, mẹ dám coi thường, bước chân ra đường không trộm thì cướp 6. Cha mẹ ngồi đấy không hỏi, không han, bước vào cơ quan cúi chào thủ trưởng 7. Con trai chào trăm câu không bằng nàng dâu một lời thăm hỏi 8. Khôn đừng cãi người già, chớ có dại mà chửi nhau với trẻ
27/08/2010(Xem: 23638)
Còn nghĩ rằng “Đời là thế, vốn dĩ đời là thế”, “giữa cuộc đời cũng chỉ thế mà thôi”. Trước hiên nhà, lá rụng đầy sân, Chớm lộc mới, ngát hương đường cũ. Vậy nên: Hương xưa còn đọng trên đường, Ngàn lau lách ấy xem dường trinh nguyên. Âm ba tiếng hát đỗ quyên, Lung linh trăng nước xe duyên sơn hà.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]