Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đừng Tuyệt Vọng

23/04/202020:58(Xem: 5817)
Đừng Tuyệt Vọng

hope_bird
Đừng Tuyệt Vọng

 

Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.

 

Chúng ta có thể nghe thấy điều này, và trở nên sợ bị choáng ngợp. Nhưng mỗi chúng ta có thể đóng góp cho sự định tỉnh của thế giới. Làm như vậy chúng ta mới khám phá ra vai trò của vị Bồ tát. Yếu tố cơ bản của Bồ Tát là từ bi tâm đi song song với trí tuệ. Bồ Tát cứu độ người khác và sẵn sàng thụ lãnh tất cả mọi đau khổ của chúng sinh cũng như hồi hướng phúc đức mình cho kẻ khác. Con đường tu học của Bồ tát bắt đầu bằng luyện tâm Bồ đề và giữ Bồ Tát hạnh nguyện. Cách thức của Bồ tát là một trong những hiện thực hóa từ bi, trí tuệ, thực hành triệt để và mạnh mẽ nhất trong tất cả các pháp môn của Phật giáo. Bồ tát hạnh là triệt để, bởi việc thực hiện những gì mang đến sự an lạc hạnh phúc đến với tha nhân, cũng như sự an lạc hạnh phúc của chính mình. Hạnh phúc cao nhất của chính mình được sự kết nối với sự an lạc hạnh phúc tuyệt vời của tha nhân.

 

Con đường của Bồ tát là một sự tương phản nổi bật, với chủ nghĩa cá nhân quá mức trong văn hóa của chúng ta. Mọi thứ có thể tập trung xung quanh cái tôi riêng lẻ: “nỗi sợ hãi, hạnh phúc, nhu cầu của tôi. Chúng ta có thể bị cuốn hút vào bộ phim của chính mình, đến nỗi chúng ta ngăn chặn sự phát triển của chính mình”.

 

Sự hấp thu phản xạ có thể có giá trị trong một thời gian, nhưng chúng ta không muốn dừng lại ở đó. Các nhà trị liệu nói về việc cuối cùng khách hàng phát ốm vì lắng nghe chính họ, đó thực sự là một dấu hiệu tốt. Có nghĩa là nó giúp chúng ta đang vượt ra ngoài sự đồng nhất với nỗi khổ cá nhân của chúng ta. Chúng ta sẵn lòng chăm sóc cho một thế giới rộng lớn hơn thế giới chúng ta.

 

Mỗi truyền thống ứng xử trí tuệ cho chúng ta biết rằng, ý nghĩa và sự an lạc hạnh phúc của con người không thể tìm thấy trong sự đơn phương, mà xuất phát từ sự hàp phóng, tình yêu thương (từ bi) và sự hiểu biết (trí tuệ). Biết rõ điều này, vị Bồ tát xuất hiện dưới đa dạng hóa hình thức, từ một người phụ nữ hiền thục chu toàn cho đến công dân toàn cầu. Các thiền giả thường niệm danh hiệu chư vị Bồ tát khi họ ngồi, đưa ra bất kỳ lợi ích nào từ việc thực hành của họ vì lợi ích cho tha nhân: “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ; Tôi thệ nguyện sẽ mang lại sự an lạc giải thoát đến với tất cả chúng ta”. Giống như thời cổ đại, các thầy thuốc phải đọc Lời thề Hippocrates khi chuẩn bị ra trường để hành nghề. Lời thề này được các sinh viên Y khoa đọc và nguyện làm theo trong lễ tốt nghiệp, với tinh thần vô ngã vị tha, phát huy Bồ đề tâm, từ bi tâm, vị Bồ tát thệ nguyện phục vụ vì phúc lợi cho tất cả mọi người.

 

Về mặt tâm lý, đây để nói là một điều đáng kinh ngạc. Điều này có nghĩa là tôi sẽ đi vòng quanh và để cứu độ cho cho tất cả bảy tỷ người trên hành tinh này và hàng nghìn tỷ người khác? Làm thế nào tôi có thể thực hiện được như vậy? Khi chúng ta nghĩ về nó, từ ý thức hạn chế của bản thân, dường như là không thể được. Chúng ta hiểu, nhưng khi chúng ta biến nó thành một ý định từ Bồ đề tâm. Nhận lời thề nguyện như vậy là một phương hướng, một mục đích thiêng liêng, một tuyên bố của sự trí tuệ, một sự dâng hiến, một chúc phúc cát tường. Khi thế giới được nhìn bằng nhãn quang của một vị Bồ tát, không có ta và người khác, chỉ có chúng ta (vô ngã vị tha).

 

Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sinh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau. Tất cả chúng ta là những khía cạnh của cùng một thực thể, là những phần khác nhau của một tổng thể, giống như muôn vàn ngọn sóng nổi lên rồi lại lặn xuống giữa đại dương liên hệ qua lại với những biến đổi của đại dương. Tại vì chúng ta liên quan chặt chẽ với nhau, không thể tách rời trong đại dương bao la của sự tồn tại, cho nên Phật giáo khuyên mọi người nên thương yêu lẫn nhau. Chúng ta phải biết xem nhau như là sự nới rộng của cùng một thực thể. Từ đó chúng ta có thể đối xử với nhau như là những người bạn, người anh em của mình, và thế giới khổ đau, thù hận này sẽ được chuyển thành cảnh giới an bình và hạnh phúc. Thế giới luân hồi này sẽ chuyển thành cảnh giới Niết bàn.

 

Với mỗi hơi thở, chúng ta đan xen carbon dioxid và oxy với cây phong và cây sồi, cây gỗ và cây gỗ đỏ trong sinh quyển chúng ta. Chúng ta nuôi dưỡng hằng ngày và tham gia với chúng ta với nhịp điệu của loài ong, sâu bướm và thân rễ; nó kết nối cơ thể chúng ta với vũ điệu hợp tác vô số loài thực vật và động vật.

 

Nhà sinh vật học Lewis Thomas quan sát địa cầu và thấy đất Mẹ là một cơ thể, một tế bào của vũ trụ. Không có gì là riêng biệt. Tác động lực thúc đẩy trong tự nhiên, trên hành tinh có loại sinh quyển này, là sự hợp tác. Sáng tạo mới lạ nhất trong tất cả các phương án trong tự nhiên, và có lẽ là quan trọng nhất trong việc xác định các sự kiện mang tính bước ngoặc lớn trong quá trình tiến hóa, là sự  cộng sinh, đơn giản là hành vi hợp tác được thực hiện đến cùng cực của nó.

 

Trừ khi chúng ta hiểu điều này, chúng ta bị chia rẻ việc chăm sóc bản thân hoặc chăm sóc những rắc rối của thế giới. Vào một buổi sáng, tôi viết một bài tiểu luận EB White, đã bị giằng xé giữa mong muốn cứu thế giới và thiên hướng thưởng thức nó. Công nhận sự phụ thuộc lẫn nhau giúp giải quyết vấn đề nan giải này. Thông qua thực hành thiền Phật giáo, chúng ta khám phá ra rằng tính hai mặt của bên trong và bên ngoài là sai. Do đó, người khai sinh của Đấu tranh Bất bạo động, nhà lãnh đạo, vị anh hùng dân tộc vĩ đại của Ấn Độ Mahātmā Gāndhī (1869-1948) được ca ngợi vì tất cả đại cuộc chung cho Ấn Độ của Ngài, Ngài đã từ chối, tôi không làm điều này cho Ấn Độ, tôi làm điều này cho chính mình.

 

Chúng ta chỉ bị giới hạn bởi trí tưởng tượng của chúng ta. Sẽ luôn có đau khổ. Vâng, tham lam, sân hận và si mê sẽ là một phần của tâm lý chung của chúng ta. Nhưng có những cách giúp chúng ta có thể sống trí tuệ. Nuôi một gia đình, điều hành một doanh nghiệp có ý thức và điều chỉnh một sự bất công, tất cả có thể đóng góp vào sự kết nối của toàn bộ. Mỗi người chúng ta đều có thể cảm nhận được tiềm năng này. Con người chúng ta có thể sống với lòng trắc ẩn hơn, quan tâm đến với nhau nhiều hơn, ít thành kiến, phân biệt chủng tộc và sợ hãi. Có những cách trí tuệ để giải quyết xung đột đang chờ bàn tay mát mẻ và trái tim ấm lòng từ bi của chúng ta.

 

Tác giả Trưởng lão cư sĩ Jack Kornfield

Thích Vân Phong dịch

(Nguồn: Jack Kornfield)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4544)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7369)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4776)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4888)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5333)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10303)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9064)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6118)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8818)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5001)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]