Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trưởng lão Luangphor Viriyang, vị Thiền sư tuổi bách tuế dư niên Đại thọ, vẫn Tạo sự Khác biệt cho Thế giới

23/04/202009:07(Xem: 6089)
Trưởng lão Luangphor Viriyang, vị Thiền sư tuổi bách tuế dư niên Đại thọ, vẫn Tạo sự Khác biệt cho Thế giới

Trưởng lão Luangphor Viriyang, vị Thiền sư tuổi bách tuế dư niên Đại thọ, vẫn Tạo sự Khác biệt cho Thế giới

(Even at 100, meditation master Luangphor Viriyang continues to make a difference to the world)

 TLHT. Luangphor Viriyang Sirintharo 1

Trưởng lão Thiền sư Biography of Phra Dhammongkolyarn (Luangphor Viriyang Sirintharo) tuổi bách tuế dư niên đại thọ, nhưng sức khỏe về thể chất và tinh thần vẫn tuyệt hảo, Ngài tiếp tục giảng dạy tu tập thiền định cho cả công dân Thái Lan và người nước ngài.

 

Ngài đương nhiệm Phương trượng trụ trì ngôi già lam Wat Dahammamongkol tại thủ đô Bangkok, Vương quốc Phật giáo Thái Lan, đã tổ chức mừng sinh nhật đại thọ cho Ngài vào ngày 7/1 vừa qua.

 

Đời sống tâm linh của Ngài là một vị cao tăng thạc đức Phật giáo, là một hành trình phi thường cho chính Ngài, và mang đến sự lợi lạc cho số lượng lớn người ở Thái Lan và nước Ngoài.

 

Ngài đã trở thành một trong những vị Thiền sư vĩ đại, người đã mang ánh sáng chánh tín, chánh kiến Phật pháp, đạo nhiệm mầu và hạnh đức Như Lai đến với những người bình thường. Có lần Ngài nói rằng, Ngài thường dạy thiền cho chư tăng nhưng Ngài thấy rằng khi họ hoàn tục, kiến thức về thiền cũng biến mất. Ngài nói rằng, đây là lý do đằng sau động thái của Ngài để thực hành thiền định cho công chúng nói chung.

 

Ngài đã dạy cho hàng vạn người thông qua ngôi chùa của mình, và các ngôi chùa liên kết ở Thái Lan, Canada và gần đây tại Hoa Kỳ.

 

Ngày nay thiền chánh niệm Phật giáo rất phổ cập ở Thái Lan và trên thế giới, khi mọi người thực hành thiền định, để tăng cường sự an lạc hạnh phúc, tăng năng suất trong công  việc thường nhật, và giảm bớt sự căng thẳng do áp lực công việc khiến cuộc sống trở nên căng thẳng stress kéo dài.

 

Ngài thường nhắc nhở các thiền sinh rằng, việc thực hành thiền chánh niệm sẽ cải thiện sức khỏe tinh thần và thể chất của chúng ta, và nó sẽ hoạt động như một phanh tự động trong việc ngăn chặn những sự phiền toái trong cuộc sống.

 

Ngài nhấn mạnh rằng, mọi người nên dành thời gian quý báu để tu tập thiền mỗi ngày, ít nhất 5 đến 15 phút, để tăng cường sức khỏe và thể chất của mình.

 

Ngài thường nói, Đơn giản chỉ làm điều đó, cho dù quý vị có muốn làm hay không.

 

Tiểu sử Thiền sư Phra Dhammongkolyarn (Luangphor Viriyang Sirintharo)

Trụ trì của chùa Wat Dhammamongkol, Bangkok

Lãnh đạo hệ phái Phật giáo Dhammayuttika Nikāya (ธรรมยุติกนิกาย), Canada

 Chùa Wat Dahammamongkol

Thiền sư Phra Dhammongkolyarn (Luangphor Viriyang Sirintharo), hệ phái Phật giáo Dhammayuttika Nikāya, Thái Lan, vị cao tăng nổi tiếng với tư cách là vị Đạo sư chuyên tu thiền định với hơn 80 năm thực nghiệm. Đạo hạnh, ngôn phong của Ngài đã tác động đến việc giảm thiểu mâu thuẫn xung đột thế giới, và gia tăng sự hài hòa trong các mối quan hệ bằng cách giáo hóa mọi người luôn chan hòa trong ánh sáng chánh tín, chánh kiến, về sự lợi ích của sự tu tập thiền chánh niệm, việc thúc đẩy cảm xúc an lạc hạnh phúc, và đạt được sự bình an nội tâm. Là vị Đạo sư, Ngài đã hướng dẫn hàng vạn Phật giáo đồ hướng đến sự giác ngộ giải thoát, góp công đức kiến tạo nhiều cơ sở tự viện Phật giáo, Phật học viện, trung tâm Thiền định mới tại Thái Lan và Bắc Mỹ vì lợi ích cho tất cả chúng sinh.

 

Thiền sư Luangphor Viriyang Sirintharo sinh ngày 7 tháng 1 năm 1920, tại Saraburi, một tỉnh (changwat) ở miền Trung của Thái Lan. Sau đó, Ngài cùng với song thân và sáu anh chị em đến Nakhonrn Ratchasima (nay là thành phố), phía đông bắc Thái Lan, nơi thân sinh của Ngài là người quản lý nhà ga.

 

Năm 13 tuổi, túc duyên nhiều đời, bồ đề quyến thuộc bao kiếp lại gặp nhau, Ngài được phúc duyên được đảnh lễ Đạo sư Phra Ajarn Gong Ma, trụ trì một ngôi chùa ở địa phương, cầu xin thế phát xuất gia học Phật, khi đó, Ngài gặp phải một trải nghiệm bất ngờ, và được chuyển hóa với việc thực hành thiền định, ấn tượng sâu sắc với sự sùng kính trong suốt thời gian tu học tại đây. Từ đó, Ngài đã đã sáng ra khi nhận được những hiểu biết và lợi ích của việc thực hành thiền định, trong nhiều năm được giáo dưỡng giới thân tuệ mạng nơi chốn thiền môn thanh tịnh. Ngài tiếp tục nhấn mạnh rằng, trong quá trình học Phật, trạch pháp, Ngài nhận thấy rằng thiền định rất phù hợp với mọi người không phân biệt tôn giáo, giai cấp xã hội, mọi người có thể thực hành bất  kể đức tin, giáo dục, chủng tộc, tuổi tác hay giới tính.

 

Thuở ấu thơ, Ngài bị một căn bệnh nghiêm trọng, đe dọa mạng sống của Ngài; may mắn thay, gặp được danh y lành nghề đã chữa lành bệnh. Từ sự kỳ diệu này, Ngài quyết chí tu học, miệt mài đèn sách, nghiên tầm Kinh văn Phật điển, và Ngài đã trở thành một nhà nghiên cứu Phật học uyên thâm, thông thạo các văn bản Phạn ngữ và Phạn cổ điển.

 

Năm 16 tuổi, Ngài được Hòa thượng Bổn sư Phra Ajarn Gong Ma cho đăng đàn thụ Sa di giới, từ đó, Ngài luôn hầu bên cạnh Hòa thượng Bổn sư, hai thầy trò trên hành trình xuyên rừng nhiệt đới, rừng nhiệt đới tươi tốt xanh mơn mởn của Thái Lan, cảnh quan u tịch rất thích hợp cho việc công phu tu tập thiền định.

 

Năm 20 tuổi, Ngài được Hòa thượng Bổn sư cho đăng đàn thụ giới Tỳ khưu tại Tỉnh Chanthaburi, miền Đông của Thái Lan. Sau 8 năm tu khổ hạnh tại tu viện Dhuttang, Ngài được Hòa thượng Bổn sư giới thiệu đến cầu pháp với Hòa thượng Acariya Mun Bhuridatta Thera ở Sakon Nakorn, một tỉnh đông bắc Thái Lan. Sau khi cầu pháp, Ngài dành 4 năm tiếp theo để nghiên cứu các thực hành thiền nâng cao; và với sự cho phép của Hòa thượng Y chỉ sư đáng tôn kính, Ngài đã xuất bản một bộ sưu tập về những lời giảng dạy của Hòa thượng Acariya Mun Bhuridatta.

 

Đầu những thập niên 1960 thế kỷ 20, Ngài đã cư trú trên một mảnh đất đầm lầy ở ngoại ô Bangkok, nơi Ngài dừng trụ và phát nguyện kiến tạo ngôi già lam Wat Dhammamongkol.  Ngài đã nổi tiếng với một số dự án, nhằm giúp ích cho những vùng nông thôn nghèo ở Thái Lan.

 

Vào thập niên 1980, Ngài đã phác thảo một kế hoạch chi tiết chạm khắc 2 pho tượng Phật Thích Ca Mâu Ni với tư thế tọa thiền (thành đạo), và một pho với tư thế nằm (nhập niết bàn). Hai pho tượng nêu trên, theo ý tưởng của Ngài, sẽ được chế tác từ  ngọc bích. Được nhiều người ủng hộ và ngôi già lam đã hoàn thành vào năm 1985, dự án bao gồm một bảo tháp cao nhất ở  Thái Lan, đã mở rộng tới hơn 25 mẫu vườn xinh đẹp, Phật học viện, Tăng đường, Thiền đường, Khách đường. . . Hiện nay có đến 500 vị tăng tu học nơi đây.

 

Sau những năm tháng hóa duyên hành đạo, bồ đề quyến thuộc ngày thêm đông, Ngài đã mở rộng phát triển các trung tâm Thiền trên khắp nơi Thái Lan. Tiếp theo, Ngài mở mang thêm cơ sở tự viện Phật giáo các nước trên thế giới.

 

Ngôi già lam tự viện Phật giáo Nguyên Thủy Thái Lan đầu tiên, Wat Yannaviriya 1, được thành lập tại Vancouver, Thành phố Vancouver, một đô thị hải cảng duyên hải thuộc tỉnh British Columbia, Canada vào năm 1992; ngôi chùa thứ hai Wat Yannaviriya 2 được kiến tạo tại Toronto, Canada vào năm 1993; và ngôi chùa thứ ba Wat Dhammaviriya 1 được xây dựng tại  Ottawa, thủ đô và cũng là thành phố lớn thứ tư của Canada vào năm 1995.

 

Hiện tại, Ngài có sau ngôi già lam tự viện Phật giáo Nguyên thủy Thái Lan tại các khóa thiền có sẵn ở Edmonton, thành phố lớn thứ sáu của Canada, Calgary, một thành phố phía nam của tỉnh Alberta, Canada, Calgary, một thành phố phía nam của tỉnh Alberta, Canada, Thác Niagara, sông Niagara tại Bắc Mỹ, nằm ở đường biên giới của Hoa Kỳ và Canada, Toronto và Ottawa. . .

 

Gần đây, Ngài đã tiếp tục thành lập Trung tâm Thiền định thuộc Học viện Phật giáo Willpower, được đặt tại chùa thuộc chi nhánh của Ngài ở Canada, cũng như các nơi Houston, Dallas và Los Angeles ở Hoa Kỳ, bằng cách mở rộng truyền thống Phật giáo tôn kính này từ Vương quốc Thái Lan sang Bắc Mỹ, Luân Đôn, Vương Quốc Anh, Ngài đã nâng cao triết lý giác ngộ của Phật giáo, đào tạo nhiều thế hệ kế tục truyền đăng tục diệm, đèn thiền Phật Tổ mãi thắp sáng nghìn đời sau.

 

Thích Vân Phong

(Nguồn: Willpower Institute USA)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/08/2021(Xem: 3725)
Nhiều người đổ lỗi toàn cầu hóa bởi đã gây ra đại dịch Covid-19, và cho rằng cách duy nhất để ngăn chặn mạnh mẽ hơn nữa, sự bùng phát của những cơn đại dịch hiểm ác như thế này là phi toàn cầu hóa thế giới. Rào chắn, bế quan tỏa cảng, giảm giao thương. Tuy nhiên việc cách ly ngắn hạn là cần thiết để ngăn chặn dịch bệnh, cô lập dài hạn sẽ dẫn đến sụp đổ kinh tế, mà không mang lại bất kỳ sự đảm bảo thực sự nào trước những dịch bệnh lây nhiễm. Liều thuốc giải hữu hiệu trong phòng, chống Covid-19 không phải là chia rẽ, mà là đoàn kết.
07/08/2021(Xem: 29591)
Chủ đề: Thiền Sư Từ Đạo Hạnh (1072-1116) (Đời thứ 12, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vị Thiền Sư sau khi viên tịch tái sanh trở lại làm Vua vào triều đại nhà Lý VN) Đây là Thời Pháp Thoại thứ 269 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Bảy, 07/08/2021 (29/06/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 04:45pm (giờ Montreal, Canada) - 10:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
07/08/2021(Xem: 4405)
Sau sự xuất hiện của máy tạo oxy ở Indonesia, và được đến Hội Từ tế Phật giáo Indonesia, Pantai Indah Kapuk, Bắc Jakarta vào hôm thứ hai, ngày 26 tháng 7 năm 2021, 500 thiết bị máy tạo oxy (trong tổng số 5.000 đơn vị viện trợ) đã được bàn giao tượng trưng cho Ban Thư ký Nội các nước Cộng hòa Indonesia tiếp nhận vào hôm thứ ba, ngày 27 tháng 7 năm 2021, để xử lý Covid-19 tại Indonesia.
06/08/2021(Xem: 10142)
Cũng như chuông, trống cũng được coi như là một loại pháp khí không thể thiếu trong văn hóa tín ngưỡng của đa số dân tộc theo Phật giáo. Phật tử Việt Nam chúng ta rất gần gũi với thanh âm ngân vang thâm trầm của tiếng chuông; tiếng trống thì lại dồn dập như thôi thúc lòng người...Tại các ngôi chùa, trống Bát Nhã được đánh lên là để cung thỉnh Chư Phật, Chư Bồ Tát quang giáng đạo tràng chứng tri buổi lễ. Thông thường trống Bát Nhã được đánh lên vào ngày lễ Sám hối và trong những ngày Đại lễ. Ba hồi chuông trống Bát Nhã trổi lên để cung thỉnh Chư Phật và cung đón Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni quang giáng đạo tràng, đồng thời cũng nhắc nhở mọi người nên lắng lòng, buông bỏ mọi tạp niệm. Bà kệ trống Bát Nhã được đọc như sau: Bát Nhã hội Bát Nhã hội Bát Nhã hội Thỉnh Phật thượng đường Đại chúng đồng văn Bát Nhã âm Phổ nguyện pháp giới Đẳng hữu tình Nhập Bát Nhã Ba La Mật môn Ba La Mật môn Ba La Mật môn.
06/08/2021(Xem: 5113)
Sư thăng tòa nói: "Linh quang độc chiếu (sáng tỏ), thoát hẳn căn trần, thể lộ chân thường, chẳng kẹt văn tự, tâm tính vô nhiễm, vốn tự viên thành, hễ lìa vọng duyên tức như như Phật". Có vị tăng hỏi: "Thế nào là pháp yếu của Đại thừa Đốn ngộ? Sư đáp: - "Các người trước ngưng các duyên, thôi nghĩ muôn việc, thiện và bất thiện, thế gian và xuất thế gian - tất cả các pháp chớ ghi nhớ, chớ duyên niệm - buông bỏ thân tâm khiến cho tự tại, tâm như gỗ đá chẳng còn phân biệt, tâm vô sở hành. Tâm địa nếu không thì Trí huệ nhựt tự hiển, như đám mây tan thì mặt trời hiện ra. Hễ ngưng nghỉ tất cả phan duyên, thì những hình thức tham sân, ái thủ, cầu tịnh đều sạch - đối với Ngũ dục, Bát phong chẳng bị lay động, chẳng bị kiến văn giác tri trói buộc, chẳng bị các cảnh xấu đẹp mê hoặc, tự nhiên đầy đủ thần thông diệu dụng, ấy là người giải thoát. Đối với tất cả cảnh giới, tâm chẳng tịnh chẳng loạn, chẳng nhiếp chẳng tán,thấu qua tất cả thanh sắc chẳng có trệ ngại, gọi là Đạo nh
06/08/2021(Xem: 5415)
Dấu chân xưa du hóa, một mảnh trời bao dung, gởi những lời vàng ngọc hương xưa bay khắp cả cung trời. Từ xứ Ấn, nơi thánh tích niềm tâm linh Tôn Giáo Phật Đà, Bậc Cha Hiền Đấng Như Lai Thích Ca truyền giáo, khai sáng nguồn tâm nuôi dưỡng chủng tánh cho chư vị Thánh giả Tỳ Kheo Tăng, Tỳ Kheo Ni, hay chư vị Thiên thần Long vương, Trời người quy kính, nghe Đấng Như Lai thuyết giảng, từ gốc nhìn sâu lắng, từ pháp tu thực hành, nên Vua Quan, dân chúng ở xứ Ma Kiệt Đà, xứ Kiều Tất La, vang khắp dòng suối chảy Hưng Long Chánh Pháp nơi xứ Ấn. Có chư vị Thập đại đệ tử lớn, các vị Thánh Tăng tu tập chứng nghiệm, đạt thánh quả A-La- Hán. Tôn Giả A- Nan nối truyền Kinh Tạng nghe thông thuộc ghi nhớ không sót một câu, Tôn Giả Đại Ca Diếp nối truyền Y bát tâm tông Phật trao, làm đệ nhất Tổ sư truyền thừa, vị Luật sư Tôn giả Ưu Ba Ly, và 500 vị A- La-Hán, kết tập Kinh điển Giáo lý mà Đấng Như Lai thuyết trình qua 49 năm hành hóa độ sinh, Tôn Giả A- Nan là vị trùng tuyên Kinh Tạng, Tôn Giả Ưu-Ba-
05/08/2021(Xem: 4032)
Neil Lindsay, Phó Chủ tịch Amazon Affiliate (một chương trình tiếp thị liên kết) hỏi rằng, anh muốn đóng góp chung cảnh với ai tại Cannes Lions, lập tức anh nghĩ đến Thiền giả Yuval Noah Harari, nhà sử học Do Thái, tác giả 3 cuốn sách nổi tiếng “Sapiens”, “Homo Deus” và “21 Lessons for the 21st Century” vừa có bài viết trên Financial Times về tương lai thế giới sau đại dịch Covid-19 và những lựa chọn của nhân loại.
04/08/2021(Xem: 4114)
Đây là lần đầu tiên, trường Đại học Dongguk tổ chức buổi Thiền Trà đạo thành kính tưởng niệm Thiền sư Vạn Hải (1879-1944), cũng là kỷ niệm Ngài nhập học vào ngày 29 tháng 6 năm 1944, Ngài từng là cựu sinh viên Đại học Dongguk, là Hiệu trưởng cựu sinh viên đầu tiên, nay Ngài đã trở về trường cũ của mình sau 77 năm. . . Trường Đại học Dongguk đã tổ chức buổi lễ Thiền Trà đạo thành kính tưởng niệm Thiền sư Vạn Hải tại Chính Giác Viện vào lúc 10 giờ 30 phút sáng ngày 29 tháng 6 năm 2021.
03/08/2021(Xem: 4474)
Trong một văn bản độc quyền bằng tiếng Pháp, Thiền giả Yuval Noah Harari, một nhà sử học người Israel, giáo sư Khoa học Lịch sử tại Đại học Hebrew của Jerusalem, trường đại học lâu đời thứ hai ở Israel, sau trường Technion. Ông là tác giả của các quyển sách bán chạy nhất thế giới “Sapiens: Lược sử loài người” (2014), “Homo Deus: Lược sử tương lai” (2016) và “21 bài học cho thế kỷ 21” (2018). Bài viết của ông xoay quanh ý chí tự do, ý thức, trí tuệ và hạnh phúc. Nhìn lại năm đặc biệt này. Sau một năm khám phá khoa học và những thất bại chính trị, chúng ta có thể rút ra bài học gì cho tương lai?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]