Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài học từ nghịch cảnh, chướng duyên

26/11/201915:46(Xem: 10494)
Bài học từ nghịch cảnh, chướng duyên

blank
Namo  Avalokiteshvara Bodhisattva
 
Bài học từ nghịch cảnh chướng duyên
Thông thường ở đời chẳng ai muốn gặp phải nghịch cảnh, 
chướng duyên cả, tâm lý chung của con người vốn là tránh khổ tìm 
vui, đó là tâm lý tự nhiên muôn đời. Song, với hành giả tu Phật thì nên 
nhận định rõ rằng có những nỗi khổ trong đời con người ta '' chạy trời 
không khỏi nắng '', vì thế, không phải do tránh né mà giải quyết triệt 
để được vấn đề, người tu thì không tìm cầu chướng duyên, nhưng khi  
chướng duyên đến họ biết rằng đây là cơ hội cần thiết đối với 
sự thực hành hạnh từ bi, tâm giải thoát.
Người tu hạnh từ bi, nếu không đối diện với những điều trái ý 
nghịch lòng thì khó có thể hiểu được mình đã thực hành được hạnh
 từ bi đến mưc độ nào. Nói cách khác, nhờ đối tượng ác mà hạnh 
từ bi thăng hoa, nhờ người phỉ báng, chê trách mà sự rèn trau 
hạnh từ bi, kham nhẫn càng tăng trưởng.
Kinh sách ghi lại rằng: Một hôm, Đức Phật cùng giáo đoàn đến xứ 
Kosambi lúc ấy đang ở dưới sự cai trị của vua Udena. Khi được tin ấy, 
một trong những vị thứ phi được sủng ái của vua là nàng Magandiya 
vốn có hiềm với Đức Phật nên bà ta xúi giục những kẻ vô lại đi 
theo sau giáo đoàn của Đức Phật và mắng nhiếc Ngài bằng những 
lời lẽ rất nặng nề. Tôn giả A-nan nghe những lời chửi bới quá thậm
 tệ, không chịu nổi, bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Dân ở đây mắng nhiếc và nhục mạ chúng ta. 
Chúng ta hãy đi nơi khác!
– Ta sẽ đi đâu, A-nan?
– Đến thành phố khác, thưa Thế Tôn.
– Nếu ở đó người ta cũng chửi mình thì sẽ đi đâu, A-nan?
– Sẽ đi chỗ khác nữa, thưa Thế Tôn.
– Nếu ở đó người ta cũng chửi mình nữa thì sao?
– Chúng ta lại đi đến chỗ khác, thưa Thế Tôn.
– A-nan đừng nói thế. Ở đâu có khó khăn thì giải quyết ở đó. 
Ổn thỏa rồi mới được phép đi nơi khác. Nhưng ai chửi ông, A-nan?
– Bạch Thế Tôn! Mọi người đều mắng nhiếc chúng ta, bọn côn 
đồ và cả đám dân kia.
– A-nan, ta như con voi xông ra trận. Bổn phận của voi xông
 trận là hứng chịu những mũi tên từ bốn phía. Đúng thế, bổn phận 
của ta là kham nhẫn những lời nói độc ác”.
Tiếp đó, Đức Phật thuyết pháp bài Pháp cú được chép trong 
phẩm Voi, nói lên sự kham nhẫn của bậc giác ngộ.
 “Ta như voi giữa trận,
Hứng chịu cung tên rơi,
Chịu đựng mọi phỉ báng.
          Ác giới rất nhiều người.”  (PC 320).
 Bài pháp tác động đến đám đông tập trung quanh Ngài và 
giáo đoàn của Ngài. Rồi Đức Phật khuyên A-nan.
– A-nan, đừng phiền muộn. Những người này chỉ mắng nhiếc 
ông trong bảy ngày, đến ngày thứ tám họ sẽ yên lặng. Chuyện khó
 khăn đó đến với Phật không kéo dài quá bảy ngày.
- Người tu hành khi đối diện với nghịch cảnh, mới trắc nghiệm được
 tâm của chính mình. Đối diện với bất lợi, đối diện khổ đau, đối diện
 không danh vọng, đối diện với lời chê, mới trắc nghiệm tâm mình
 động, hay không động? Cho nên nghịch cảnh là bài học rất quý 
để trắc nghiệm tâm của mỗi người.
Nếu người tu chân chánh, điều phục tâm, mà cứ muốn thuận duyên
 đến với mình, mà không muốn nghịch duyên đến, thì rất nguy hiểm. 
Vì sao? Vì thuận duyên sở hữu quá lâu, sinh ra tham ái, nên khi 
gặp nghịch duyên là tâm bị đau khổ ngay. Ví dụ: khi mình sở hữu 
công việc tốt quá lâu, khi đối diện với sự thất nghiệp, mất việc đó,
 là tâm mình lo sợ. Mình yêu thương một người quá đậm sâu, 
đột nhiên người đó bỏ mình, liền khổ đau, chới với... 
Hãy cảm ơn nghịch duyên, đừng trách nó, chính nghịch duyên
 trui rèn cho tâm mình ngày càng kiên định.
Chướng Duyên và Tỉnh Thức
Đều la hai bậc Thầy
Vị giúp ta Giác Ngộ
Vị giúp rời mộng say...
Như Nhiên
blank
 
Tĩnh Tại
 
Có đôi khi niềm hạnh phúc
Giữ cho mình được dịu dàng
Và lắm khi lòng nhẫn nhục
Giữ đời ta được bình an. 
 
Có khi gặp nhiều nhịch cảnh
Giúp ta mạnh mẻ, kiên cường
Đối diện muộn phiền, bất hạnh
Khiến lòng thêm lớn Hiểu -Thương
 
 Có khi công thành, hiển đạt
Giúp mình hưng phấn, tự tin.
Đôi khi bị đời phụ bạc
Thương người lẻ bóng, chênh vênh..
 
 Lắm khi đường đời thất bại
Giữ mình nhẫn nại, khiêm cung
Bao lần thương đau nếm trải
Để lòng.. độ lượng không cùng...
 
 - Hãy cảm ơn những mùa Đông
Thấu hiểu tình người ấm lạnh
Tạ ơn giữa lúc Hạ nồng
Có hạt mưa về lấp lánh .
 
 Thuận, nghịch vốn nơi trần cảnh
Chớ để lòng bị '' đóng khung ''
- Giữa vô thường ngồi tĩnh tại
Nụ cười trải đến vô chung.. 
 
Như Nhiên -ThíchTánhTuệ
Bodhgaya 2017
blank
blank
blank
blank
- Kính chia sẻ cùng cả nhà hình ảnh ngày tu học tại 
Chùa Từ Tâm 8121 Portland Ave E , WA United States 
Tacoma, Seatle Washington 98404 do thầy Thích Tánh Tuệ
 và Thượng tọa trụ trì Thích Trí Huy hướng dẫn.
 
blank
blank
blank
blank
blank
blank
blank
blank

blank
blank
blank
blank
blank
blank
blank
blank
blank
blank
blank
blank
blank
blank
blank

blank
Thông Báo: 
Một ngày Tu học AN LẠC
tại Đạo Tràng Kiều Đàm Di
Fountain Valley- CA
Thứ 7 ngày 30 tháng 11 -2019
9057. La Crescenta Ave
Fountain Valley CA 92708
Liên lạc 
Đạo hữu Quảng Nguyên Phương
Phone: (714) 363 8029
Inline image
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5613)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5523)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6925)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4313)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9149)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5480)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5115)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5706)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6201)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5206)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]