Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03. Lời giới thiệu của dịch giả Thượng tọa Thanissaro

17/08/201916:28(Xem: 5987)
03. Lời giới thiệu của dịch giả Thượng tọa Thanissaro

 

Lời giới thiệu của dịch giả Thượng tọa Thanissaro

 

Một trong những đặc điểm nổi bật nhất trong lời dạy của Ngài Thiền sư Ajahn Chah chính là nhấn mạnh đến vai trò Tăng đoàn, giới luật người xuất gia, và ứng dụng như một phương tiện trong thực tập Pháp. Đó không có nghĩa là từ chối việc trao tặng món quà pháp đến với người dân bình thường, mà là Ngài vẫn luôn kết nối gần gũi với tất cả mọi người ở mọi tầng lớp xã hội, từ người nông dân chân lấm tay bùn đến các Giáo sư đại học. Kết quả thu được từ việc hoằng Pháp và thiết lập Tăng đoàn bền vững, được thấy rõ ở nhiều tự viện phát triển ổn định nơi Ngài hành đạo, ở tại Thái Lan và sau này lan rộng đến các nước như Anh, Úc, châu Âu và nhiều quốc gia khác. Ngài Thiền sư Ajahn Chah đã thấy trước sự cần thiết đối với việc thành lập Tăng đoàn ở các nước phương Tây, hầu mang lại lợi ích thiết thực trong tương lai xa cho mọi người.

Tập sách này là một tuyển tập các Pháp thoại Ngài giảng cho hội chúng xuất gia ở Thái Lan. Đây là những lời khuyến tấn đối với chư Tỳ-kheo, hay chư Tăng tại tự viện Wat Pah Pong của Ngài, và một số tự viện chi nhánh. Độc giả cư sĩ nên có suy nghĩ như thế này – Những Pháp thoại này tuy không hẳn dành cho mình, không thiết thực đối với mình nhưng chúng làm công việc giới thiệu đạo Phật và phương pháp thực tập Thiền quán. Đó là những lời dạy cho hàng ngũ xuất gia, đề cập đến những vấn đề căn bản trong đời sống tu học của chư Tăng, và những thử thách trong hoàn cảnh đặc biệt. Tập sách mang lại một nguồn kiến thức về nền tảng thực tập trong đạo Phật cho người tu học. Nhiều Pháp thoại có vẻ lạ lẫm, thậm chí là khó tiếp thu đối với người bình thường, bởi tập sách chú trọng sự tuân thủ hành trì và buông xả.  

Đối với độc giả cư sĩ, cần nên nhớ rằng những Pháp thoại này đề cập đến môi trường tu tập rất khó khăn, khắc khổ, thanh bần, nghiêm túc ở vùng Đông Bắc, một góc quê của đất nước Thái Lan, nơi ấy đã sản sinh nhiều vị Đại thiền sư lỗi lạc và hầu hết theo truyền thống tu tập trong rừng vắng. Người dân vùng Đông Bắc được mài dũa trong môi trường này để hình thành nên đức tính giản dị, đơn sơ, kiên nhẫn, thong dong, giúp họ thích hợp với đời sống tu học nơi rùng núi. Trong môi trường này, nơi có những giảng đường nhỏ, ánh sáng đèn dầu lờ mờ, chư Tăng quây quanh lắng nghe Ngài Thiền sư Ajahn Chah giảng dạy đạo lý, pháp tu.

Những lời khuyến tấn khích lệ của Thiền sư thường vào cuối buổi Tụng Giới, cứ hai tuần một lần theo quy cũ của hàng xuất gia. Nội dung khuyến tấn tùy theo hoàn cảnh lúc bấy giờ hoặc nhân lúc có vị Tăng chểnh mảng trong việc thực tập, không hiểu rõ giới luật, nói chung là “không tự giác tu học”. Để khuyến khích chư Tăng sống một lối sống đặc trưng với hạnh thiểu dục tri túc, đơn giản thanh bần, các Pháp thoại luôn khơi dậy nhiệt huyết, sự tinh tấn tu tập cho chư Tăng.

Tự thân các bài Pháp thoại đều trình bày sự quán sát và lời khuyến tấn tự nhiên hơn là những lời dạy mang tính hệ thống như hầu hết người phương Tây học lại sau này. Người nghe được yêu cầu phải hết sức tập trung vào giây phút hiện tại và quán chiếu lại việc thực tập của tự thân hơn là nhớ thuộc lòng lời dạy hay học vẹt, hay phân tích chia chẻ chúng. Bằng cách này, người nghe nhận thức được những điểm thiếu sót nơi chính mình, và biết cách làm thế nào để thực tập những phương pháp thiện xảo mà vị Thầy truyền đạt cho mình để đạt được hiệu quả tốt nhất.

Mặc dù tập sách này chỉ bao hàm những pháp tu căn bản cho người xuất gia, đối với một vị Tăng, Ni hay Sa-di, các độc giả cư sĩ có hứng thú cũng sẽ hết nghi ngờ đối với nhiều quan điểm trong việc tu tập theo truyền thống Phật giáo. Ít ra người đọc cũng biết được nhiều giai thoại của chính kinh nghiệm tu hành của Ngài Thiền sư Ajahn Chah. Những điều này có thể được xem là một tài liệu về tiểu sử hay hướng dẫn tu tâm của Ngài.

Từ những nội dung của tập sách này, phương pháp tu tâm không phải chỉ đơn giản là ngồi nhắm mắt hay cố gắng thực tập cho viên mãn kỹ thuật hành thiền như nhiều người suy nghĩ mà chính là một sự buông xả tối thượng, đó là lời nhắn gởi của Ngài Thiền sư Ajahn Chah vậy.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5557)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5468)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6869)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4252)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9078)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5420)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5046)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5634)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6139)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5155)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]