Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đọc “Chấm Dứt Thời Gian”

25/06/201922:35(Xem: 5121)
Đọc “Chấm Dứt Thời Gian”
 
Đọc “Chấm Dứt Thời Gian”-
đi tìm dấu vết Sự Sống bất sinh bất diệt
 
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn)
 buddha-5

 

(Đọc trong Chấm Dứt Thời Gian, một đối thoại giữa ngài Jiddu Krishnamurti và ngài David Bohm. Ngài Krishnamurti là một danh nhân giác ngộ được Liên Hiệp Quốc tôn vinh. Ngài David Bohm là một nhà khoa học lớn, giáo sư tiến sĩ vật lí. Bản dịch của dịch giả Đào Hữu Nghĩa.
Những chỗ trong ngoặc đơn và chữ in hoa là do người đọc làm cho rõ nghĩa).
---
(...)
Krishnamurti: Động thái TRỞ THÀNH (về mặt tâm lí-tức là thời gian tâm lí) dựng lên một trung tâm ở bên trong, TRUNG TÂM VỊ NGÃ, phải không? (Trang 9).


(...)
Krishnamurti: Tôi hiểu. Nhưng tôi đang thử khám phá NGUỒN GỐC của những nỗi đau khổ, hỗn loạn, xung đột, đấu tranh này – chỗ bắt đầu của chúng ta là gì? Khởi đầu buổi nói chuyện tôi đã hỏi: phải chăng nhân loại đã đi sai đường? Phải chăng NGUỒN GỐC LÀ CÁI “TÔI” và “cái không phải Tôi”.


David Bohm: Tôi nghĩ ta đã tiếp cận được vấn đề rồi. (Trang 9).


(...)
Krishnamurti: Tôi muốn PHẾ BỎ THỜI GIAN VỀ MẶT TÂM LÍ (tức là mọi nhớ tưởng-suy nghĩ bị dính chặt với “cái Tôi” tâm lí). (Trang 13).

(...)
David Bohm: Nhưng tôi nghĩ ý ông cho rằng TRÍ (trí siêu việt) không phát sinh từ trong não. Phải vậy không? Có lẽ não là một công cụ của trí?


Krishnamurti: Và trí không thuộc thời gian. Hãy thấy xem thế nghĩa là gì?


David Bohm: Trí không tiến hoá cùng với não?


Krishnamurti: Trí không thuộc thời gian và não thuộc thời gian – phải chăng đó là nguồn gốc của xung đột? (Trang 20).


(...)
Krishnamurti: Não đã tiến hoá.


David Bohm: Não đã tiến hoá vì vậy nó đã chứa thời gian (thời gian tâm lí-cái “tôi” tâm lí) trong đó.


Krishnamurti: Vâng, nó đã tiến hoá, thời gian (tâm lí) dự phần vào đó.


David Bohm: Thời gian trở thành THÀNH PHẦN của chính  CẤU TRÚC NÃO.


Krishnamurti: Vâng.


David Bohm: Trong khi TRÍ (trí siêu việt) hoạt động không có thời gian, còn não (với những nhớ tưởng-suy nghĩ dính chặt với cái “tôi”) thì không thể làm thế.


Krishnamurti: Có nghĩa rằng THƯỢNG ĐẾ (trí tuệ vũ trụ, tánh viên giác) chỉ hoạt động nếu NÃO TỊCH LẶNG, nếu não không còn mắc kẹt trong thời gian (thời gian tâm lí-tức là cái “tôi” tâm lí). (...).


Krishnamurti: Không phải não có khả năng THẤY được những gì nó hiện đang làm sao – bị vướng mắc trong thời gian – thấy rằng trong tiến trình đó XUNG ĐỘT không có chỗ dứt sao? Có nghĩa là, có chăng một thành phần nào của não không thuộc thời gian? (...).


David Bohm: Không phải một thành phần, mà đúng hơn rằng não phần lớn bị khống chế bởi thời gian, tuy nhiên, không có nghĩa nhất thiết nó không thể thay đổi. (Trang 20-21).


(...)
David Bohm: Tức là phủ nhận toàn bộ thời gian (thời gian tâm lí-cái tôi tâm lí).


Krishnamurti: Thời gian (tâm lí) là kẻ thù. Hãy GIÁP MẶT nó và VƯỢT QUA nó. (Trang 23).


(...)
David Bohm: Trí não không (còn) bị vướng mắc sâu vào thời gian (thời gian tâm lí-cái tôi tâm lí) bởi nó không có kiến thức (mang tính chất) tâm lí để tự cơ cấu.


Krishnamurti: Vâng.


David Bohm: Vậy ta nói rằng VÙNG NÃO PHẢI TỰ CƠ CẤU bằng cách TỰ TRI về mặt tâm lí.


Krishnamurti: Liệu bấy giờ trí não có hỗn loạn đảo điên không? Chắc chắn là KHÔNG? (Trang 28).


(...)
Krishnamurti: Không còn thời gian (thời gian tâm lí-cái “tôi” tâm lí). Bấy giờ biến cố gì xảy ra? Không phải xảy ra (riêng biệt) cho tôi, cho não tôi. Điều gì xảy ra? Ta đã nói rằng khi (tâm) ta phủ nhận thời gian (tâm lí) thì không còn có gì cả. Sau cuộc nói chuyện dài này, (ta hiểu rằng) KHÔNG GÌ CẢ NGHĨA LÀ TẤT CẢ. Tất cả là NĂNG LƯỢNG. Và ta đã ngưng ở đó. Nhưng đó không phải là chấm dứt, là cuối cùng.


David Bohm: Không phải.


Krishnamurti: Không phải cuối cùng. Lúc đó điều gì diễn ra? SÁNG TẠO phải không?


David Bohm: Vâng, cái gì đó tương tự như vậy.


Krishnamurti: Nhưng không phải là nghệ thuật sáng tạo tương tự như viết lách và vẽ vời. (…).

 

David Bohm: Không phải là một tiến trình trở thành (về tâm lí quy ngã).

 

Krishnamurti: Ồ không, tiến trình đó đã cáo chung. TRỞ THÀNH (tiến trình tâm lí quy ngã) là cái tệ hại nhất, đó là thời gian (tâm lí), đó là nguồn gốc đích thực của XUNG ĐỘT. Ta đang thử khám phá xem điều gì xảy ra khi CÁI “TÔI”, TỨC THỜI GIAN hoàn toàn chấm dứt. Tôi tin Phật đã nói đó là Nirvava (Niết-bàn). Và tín đồ Ấn giáo gọi là Moksha (giải thoát). Tôi không biết, phải chăng giáo đồ của Chúa gọi là Thiên Đàng.

(Trang 33 & 36).


(...)
David Bohm: Chắc ông thấy, ta phải làm rõ, bởi vì ông nói rằng thế giới tự nhiên là sự sáng tạo của cái TÂM VŨ TRỤ, tuy thế tự nhiên vẫn có thực tại riêng.


Krishnamurti: Mọi điều đó hiểu được.


David Bohm: Nhưng hầu như toàn thể tự nhiên đều do cái tâm vũ trụ tạo.


Krishnamurti: Tự nhiên vốn thuộc cái tâm vũ trụ. Tôi thử tìm cách chấm dứt cái tâm cá biệt; bấy giờ chỉ còn có TÂM, tâm vũ trụ đúng chứ? (Trang 38-39).


(...)
Krishnamurti: Vâng. Trong trật tự vũ trụ có vô trật tự, vô trật tự ấy có liên quan đến con người.


David Bohm: Không phải vô trật tự ở bình diện vũ trụ.


Krishnamurti: Không phải. Ở bình diện thấp hơn nhiều.


David Bohm: Vô trật tự, hỗn loạn ở bình diện con người.


Krishnamurti: Và tại sao con người đã sống trong tình trạng này từ khởi thuỷ?


David Bohm: Bởi vì con người còn VÔ MINH-ignorant, chưa thấy ra sự thật.


Krishnamurti: Nhưng CON NGƯỜI VỐN THUỘC VÀO CÁI TOÀN THỂ, CÁI NGUYÊN VẸN, nhưng trong một góc hẹp, con người tồn tại và sống trong hỗn loạn, vô trật tự. Còn cái TRÍ THÔNG MINH TỈNH THỨC MÊNH MÔNG này thì không. (Trang 41).

(...)
Krishnamurti: Bởi vì “X” (người giác ngộ) không “bằng lòng” với việc thuyết giảng và thảo luận suông. Cái mênh mông vô tận đó, chính là “X”, phải thực sự có hiệu quả, phải làm cái gì đó. (...).


David Bohm: Nhất thiết phải làm thế. Nhưng cái mênh mông vô tận ấy sẽ tác động hay thay đổi nhân loại cách nào? Khi ông nói thế, gợi ý người ta hiểu rằng có một hiệu quả siêu-cảm-giác lan toả khắp.


Krishnamurti: Đó là chỗ tôi đang nắm bắt đây. (...).


David Bohm: Vâng. Bởi vì thức tâm cũng khởi lên từ nền tảng, nên hoạt động này ẢNH HƯỞNG TOÀN NHÂN LOẠI cũng từ NỀN TẢNG.


Krishnamurti: Vâng. (Trang 228-229).

(...)
Krishnamurti: (...) “X” (người giác ngộ) nói, có lẽ chỉ cần có MƯỜI NGƯỜI được trang bị bằng TUỆ GIÁC này là có thể làm THAY ĐỔI XÃ HỘI, không phải tổ chức lại hệ thống chính trị này, khác. Công cuộc thay đổi đó hoàn toàn khác hẳn và đặt nền tảng trên TRÍ TUỆ và TỪ BI. (Trang 237).


(...)
Người hỏi: Phải ông nói TRI GIÁC (thấy biết như thực) DÙ MỘT PHẦN NHỎ BÉ cũng là cái MÊNH MÔNG VÔ TẬN?


Krishnamurti: Dĩ nhiên, dĩ nhiên.


Người hỏi: Phải tự thân tri giác là NHÂN TỐ làm thay đổi?


David Bohm: Phải ông nghĩ rằng việc tri giác cái phần nhỏ bé đó chuyển hướng nhân loại thoát khỏi con đường nguy hiểm họ đang đi?


Krishnamurti: Vâng, tôi nghĩ thế. Nhưng để đánh lệch hướng đi vào chỗ huỷ diệt của con người, ai đó phải BIẾT LẮNG NGHE. Đúng chứ? Ai đó, người nào đó – mười người nào đó cũng được – phải biết lắng nghe.


David Bohm: Vâng.


Krishnamurti: Lắng nghe TIẾNG GỌI của cõi mênh mông vô tận đó (“phản văn văn tự tánh”).


David Bohm: Vậy là cái mênh mông vô tận (tánh viên giác) có thể làm lệch hướng đi của con người. CÁ NHÂN KHÔNG THỂ làm được việc đó. (Trang 239).

---

(...)
Krishnamurti: Tôi muốn thảo luận với bạn và có lẽ cả Narayan (hiệu trưởng trường Rishi Valley) xem điều gì đang diễn ra nơi bộ não nhân loại. Ta có một nền văn minh mở mang, tiến bộ rất cao nhưng đồng thời cũng rất dã man, tàn ác với tính vị kỉ được nguỵ trang dưới mọi lớp áo tinh thần, tôn giáo. TẬN SÂU TRONG NỘI TÂM CŨNG CÓ TÍNH VỊ KỈ khủng khiếp đó. Não bộ con người đã TIẾN HOÁ liên tục qua nhiều ngàn năm để ĐI ĐẾN GIAI ĐOẠN CHIA RẼ HUỶ DIỆT NÀY mà tất cả chúng ta đều biết. Vì thế tôi tự hỏi phải chăng não bộ người, không phải não bộ đặc biệt riêng tư nào cả, mà là NÃO BỘ LOÀI NGƯỜI, đang hư hỏng, sa đoạ? Phải chăng não đang ở trong tình trạng suy đồi một cách chậm và chắc? Hay liệu trong một đời người ta, ta có thể mang lại TRONG NÃO MỘT SỰ ĐỔI MỚI toàn diện – một cuộc đổi mới toàn vẹn, triệt để, bất nhiễm? Tôi đã tự hỏi mọi điều ấy và tôi muốn thảo luận.

Tôi nghĩ não bộ nhân loại không phải là não bộ của cá nhân nào, nó không phải của tôi hay bất kì của ai khác. Đó là não bộ của nhân loại đã tiến hoá qua nhiều nghìn năm. Và trong cuộc tiến hoá đó, não đã tích luỹ một lượng lớn khủng khiếp kinh nghiệm, kiến thức và những hành động tàn ác, hung bạo và thô bỉ của tính vị kỉ hay ích kỉ. Có thể nào cởi bỏ tất cả mọi thứ ấy và đổi khác không? Bởi vì rõ ràng NÃO ĐANG VẬN HÀNH TRONG NHỮNG MÔ HÌNH. Dù đó là mô hình tôn giáo, khoa học, kinh doanh... hay mô hình gia đình thì não vẫn luôn luôn vận hành trong CÁI VÒNG LUẨN QUẨN (cái “tôi” tâm lí) nhỏ nhen cạn cợt. Các vòng luẩn quẩn ấy VA CHẠM NHAU, mâu thuẩn dường như không có chỗ dứt. Vậy cái gì, yếu tố nào sẽ đứng ra phá vỡ việc hình thành các mô hình này mà không rơi vào mô hình mới khác, mà phá vỡ toàn bộ hệ thống mô hình, dù là đau khổ hay khoái lạc? Tóm lại, não đã chịu nhiều cú sốc, nhiều thách thức và áp lực. Và nếu nó không đủ khả năng để TỰ ĐỔI MỚI hay tự trẻ hoá lại thì có rất ít hi vọng. Bạn hiểu chứ?

David Bohm: Chắc ông thấy, có một khó khăn trước mắt. Nếu ông suy nghĩ đến cấu trúc của não, ta không thể đi sâu vào cấu trúc đó về mặt vật lí.

Krishnamurti: Về mặt vật lí, ta không thể. Tôi biết, ta đã thảo luận điều ấy. Vậy não phải làm gì? Các chuyên gia về não người có thể quan sát, lấy não người chết ra xem xét, nhưng làm thế không giải quyết được vấn đề. Đúng chứ?


David Bohm: Không thể.

Krishnamurti: Vậy con người phải làm gì khi biết rằng KHÔNG THỂ THAY ĐỔI ĐƯỢC NÃO TỪ BÊN NGOÀI? Nhà khoa học, chuyên gia về não và nhà thần kinh học đã giải thích đủ điều, nhưng các giải thích, các nghiên cứu của họ cũng không giải quyết được vấn đề này.

David Bohm: Không có bằng chứng cho thấy là họ có thể.


Krishnamurti: Không có bằng chứng.
(...)
David Bohm: Câu hỏi tiếp theo là liệu não có thể tri giác chính cấu trúc của mình.
Krishnamurti: Liệu NÃO CÓ THỂ TRI GIÁC (thấy biết như thực) CHÍNH HOẠT ĐỘNG CỦA NÓ không? Và không chỉ tri giác chính hoạt động của mình mà tự mình còn CÓ ĐỦ  NĂNG LƯỢNG để phá vỡ tất cả mô hình và thoát khỏi đó không?
(...)
David Bohm: Vâng, tôi nghĩ ở một giới hạn nào đó, ta phải buông bỏ kiến thức của ta, chắc ông thấy, kiến thức có thể có giá trị đến một giới hạn nào đó và quá giới hạn đó kiến thức không còn giá trị. Kiến thức trở thành chướng ngại. Ông có thể nói NỀN VĂN MINH CỦA TA ĐANG SỤP ĐỔ DO CÓ QUÁ NHIỀU KIẾN THỨC.

Krishnamurti: Đương nhiên thôi.


David Bohm: Ta không biết loại bỏ chướng ngại.
(...)
Krishnamurti: Vâng, tôi muốn đặt vấn đề về toàn bộ cái ý nghĩ muốn có kiến thức.


David Bohm: Nhưng, một lần nữa, nói thế không rõ lắm, bởi vì ta chấp nhận rằng ta cần có một số kiến thức.


Krishnamurti: Đương nhiên, ở một mức độ nào đó.


David Bohm: Vậy không rõ ông muốn đặt vấn đề về loại kiến thức nào?


Krishnamurti: Tôi đặt vấn đề về việc kinh nghiệm lưu lại kiến thức, tức để lại một dấu ấn.


David Bohm: Vâng, nhưng loại dấu ấn gì? Dấu ấn tâm lí à?


Krishnamurti: Đương nhiên, DẤU ẤN TÂM LÍ (tức cái “tôi”). (Trang 241-250).

(...)
Krishnamurti: (...) Ta đang tiến đến một điểm, tức là TRI GIÁC TRỰC TIẾP và HÀNH ĐỘNG TỨC THÌ. Thông thường tri giác của ta bị điều khiển bởi kiến thức (mang dấu ấn tâm lí vị ngã), bởi quá khứ (mô hình tâm lí), tức là kiến thức đứng ra tri giác và từ đó mà có hành động. Đó là nhân tố CO RÚT NÃO, gây lão suy.

Có chăng một tri giác không bị trói buộc bởi thời gian (thời gian tâm lí – tức cái “tôi”)? Và do đó có hành động tức thì? Tôi trình bày như vậy có rõ chưa? Nghĩa là, bao lâu não, đã tiến hoá qua thời gian (mang dấu ấn tâm lí), vẫn còn sống trong mô hình của thời gian thì vẫn còn chịu tình trạng lão suy. Nhưng nếu ta có thể phá vỡ mô hình thời gian đó, nếu não đã phá vỡ mô hình thời gian đó, từ đó mới có CÁI KHÁC diễn ra.
(...)
Narayan: Phải ý ông muốn nói rằng, chính việc THẤY cái tiến trình mang tính huỷ diệt ấy là NHÂN TỐ GIẢI THOÁT?


Krishnamurti: Đúng thế.
(...)
Krishnamurti: Tôi không nói về việc tồn tại mãi mãi – tuy thế tôi không chắc là não bộ vật chất không thể tồn tại mãi mãi (năng lượng bản thể). Không, đây là việc hết sức nghiêm túc, tôi không nói đùa đâu. (Trang 258-261).

(...)
David Bohm: Phải ông nói rằng NỘI DUNG TÂM LÍ NÀY LÀ MỘT CẤU TRÚC VẬT LÍ nào đó nằm trong não? Nhằm mục đích để cho nội dung tâm lí này tồn tại, não qua bao nhiêu năm đã thực hiện thật nhiều NHỮNG KẾT NỐI CỦA TẾ BÀO NÃO hầu cấu tạo nội dung này?


Krishnamurti: Chính xác, chính xác.

David Bohm: Và rồi một ánh chớp của TUỆ GIÁC (tri giác thuần khiết, trực tiếp) SOI THẤY tất cả mọi điều ấy, và tất cả không còn cần thiết nữa. Do đó, tất cả mọi điều ấy bắt đầu tan biến. Và khi đã TAN BIẾN thì không còn có nội dung (tâm lí) nữa. Bấy giờ, bất cứ não làm việc gì cũng đều khác hết.


Krishnamurti: Hãy đi xa hơn. Bấy giờ, có sự trống không hoàn toàn.

David Bohm: Đúng. Trống không nội dung. Nhưng khi ông nói trống không hoàn toàn, phải ý ông muốn nói trống không tất cả NỘI DUNG TÂM LÍ (vị ngã-cái “tôi”) này?


Krishnamurti: Đúng thế. Và sự trống không đó có một năng lượng khủng khiếp. CÁI KHÔNG ĐÓ LÀ NĂNG LƯỢNG.

David Bohm: Vậy phải ý ông muốn nói rằng não, do đã thực hiện tất cả những kết nối phức tạp ấy, đã giam hãm một lượng lớn năng lượng?


Krishnamurti: Đúng đấy. Tiêu hao năng lượng.


David Bohm: Và khi các kết nối bắt đầu tan biến thì năng lượng liền có đó.


Krishnamurti: Vâng.


David Bohm: Phải ông nói năng lượng là vật lí cũng là năng lượng khác?


Krishnamurti: Tất nhiên. Bây giờ ta có thể đi tiếp vào chi tiết hơn. Nhưng nguyên lí này, NGUỒN GỐC của nó, là một Ý NIỆM hay một SỰ KIỆN? Tôi nghe tất cả mọi điều ấy bằng thính giác, nhưng tôi có thể biến điều tôi nghe thành một ý niệm. Nếu tôi nghe không chỉ bằng lỗ tai, mà BẰNG CẢ TỰ THỂ CỦA TÔI, bằng chính trong cấu trúc của tôi thì lúc đó, VIỆC GÌ XẢY RA? Nếu không nghe theo cách đó, tất cả mọi điều ấy đơn thuần trở thành một ý niệm, và tôi quay cuồng tất cả phần đời còn lại của mình chơi đùa với những ý niệm. (...).

(...)

Krishnamurti: THIỀN là TUỆ GIÁC.
(Trang 273-276).


(...)
David Bohm: Vật chất đang động. Ông có thể nói rằng có bằng chứng về điều đó, rằng khoa học đã tìm thấy vô số những phản ứng đều do các dây thần kinh.


Krishnamurti: Có phải bạn nói rằng vật chất và chuyển động đều là những phản ứng tồn tại trong tất cả vật chất hữu cơ.


David Bohm: Vâng, mọi vật chất ta biết đều tuân theo định luật TÁC ĐỘNG VÀ PHẢN ỨNG. Mỗi tác động đều có một phản ứng tương xứng.


Krishnamurti: Vậy tác động và phản ứng là một tiến trình vật chất như TƯ TƯỞNG vậy. Bây giờ việc VƯỢT LÊN TRÊN TIẾN TRÌNH ĐÓ mới là vấn đề.
(...)
Krishnamurti: Bởi vì bất kì động đậy nào của tư tưởng đều là một tiến trình vật chất.
(...)
David Bohm: Vâng. Vậy ta nói tư tưởng là như thế. Tư tưởng vẫn xuất phát từ cái nền tảng kiến thức. Vì thế, ông cho rằng CÁI MỚI phát sinh KHÔNG THUỘC VÀO TIẾN TRÌNH NÀY?


Krishnamurti: Vâng, có cái gì đó mới thì TƯ TƯỞNG, như một tiến trình vật chất, PHẢI CHẤM DỨT.


David Bohm: Và rồi sau đó tiến trình tư tưởng có thể ĐƯỢC SỬ DỤNG LẠI.


Krishnamurti: Sau đó, vâng. (...). (Trang 322-324).

(...)
Krishnamurti: (...) Giờ đây, tôi xin hỏi, phải chăng vũ trụ vạn vật và cái trí, đã tự mình trút sạch trống không mọi thứ (tâm lí vị ngã), đó là một?


David Bohm: Phải chăng chúng là một?


Krishnamurti: Chúng không tách biệt, riêng lẻ, chúng là một (pháp thân-pháp giới).


David Bohm: Vậy, ông đang nói rằng VŨ TRỤ VẬT CHẤT giống như THÂN CỦA CÁI TRÍ TUYỆT ĐỐI?


Krishnamurti: Vâng, chính xác.


David Bohm: Nói thế thật là ấn tượng!
(...)
Krishnamurti: Ta cũng đồng ý ở chỗ rằng có cái TRÍ PHỔ QUÁT này và trí con người có thể HOÀ NHẬP vào đó khi có TỰ DO GIẢI THOÁT. (Trang 342-343).

(...)
Krishnamurti: Từ cái cá biệt riêng tư, cần thiết phải đi đến cái chung, cái phổ biến, rồi từ cái phổ biến vẫn tiếp tục vào sâu hơn nữa và có lẽ, có cái tánh thuần khiết được gọi là TỪ BI, TÌNH YÊU và TRÍ TUỆ. Nhưng điều đó có nghĩa rằng bạn phải đặt hết trí, tâm và toàn bộ tự thể của bạn vào công cuộc TRA XÉT, KHÁM PHÁ này. (...). (Trang 369-370).
--------
THAY LỜI KẾT:
* “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả.
“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Đường Về Minh Triết; Tuệ Thiền Lê Bá Bôn; nxb Văn Nghệ, 2007).

-----------------------------------------------  

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/03/2022(Xem: 2634)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu. Hôm nay tôi sẽ viết về các loại Tình: tình bạn, tình người, tình yêu, thình thương, tình cảm v.v… Nếu viết bằng chữ Hán về chữ Tình nầy thì bên trái viết bộ tâm đứng, có nghĩa là những tình nầy đều khởi đi từ tâm của mỗi con người; bên phải viết chữ thanh là màu xanh hay cũng còn có ý là rõ ràng, trong sáng v.v…, hai chữ nầy ghép lại gọi là chữ Tình. Sau nầy tiếng Việt chúng ta dùng chữ tình yêu, tình cảm, tình thương, tình ý v.v…cũng đều sử dụng chữ tình nầy để ghép chung vào chữ Nôm của chúng ta, trở thành tiếng Việt thuần túy.
04/03/2022(Xem: 2335)
Xin khép lại những phiền muộn của năm cũ với nhiều nỗi đau thương mất mát và ly biệt, niềm thương cảm cho người thân, thầy bạn mãi mãi rời xa chúng ta. Trong bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào, ta vẫn nghĩ, dù sao đó là những chuyện đã qua, năm mới với nhiều hy vọng mới, tư duy mới và một cuộc hành trình mới đang chờ chúng ta phía trước. Xin bạn hãy khép lại những lo âu phiền muộn, lau khô những giọt nước mắt cho những mối tình hay những cuộc hôn nhân đổ vỡ, rồi cũng sẽ có người phù hợp với bạn, sẻ chia vui buồn trong cuộc sống của bạn. Sự chân thành sẽ tồn tại quanh bạn, những giọt nước mắt sẽ giúp bạn hiểu được cuộc đời này, rồi niềm vui sẽ đến, những trở ngại giúp bạn biết nâng niu cuộc sống.
02/03/2022(Xem: 6320)
CHÁNH PHÁP Số 124, tháng 3.2022 Hình bìa của Kranich17 (Pixabay.com) NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XUÂN VỀ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6
01/03/2022(Xem: 3911)
Những ngày gần đây, dường như chánh niệm đang lan tỏa khắp mọi nơi. Khi tìm kiếm trên Google mà tôi đã thực hiện vào tháng 1 năm 2022 cho cụm từ "Chánh niệm" (Mindfulness) đã thu được gần 3 tỷ lượt truy cập. Phương pháp tu tập thiền chánh niệm này hiện được áp dụng thường xuyên tại các nơi làm việc, trường học, văn phòng nhà tâm lý học và các bệnh viện trên khắp cả nước Mỹ.
01/03/2022(Xem: 3877)
Hàng trăm đồ tạo tác vật phẩm văn hóa Phật giáo đã bị đánh cắp hoặc phá hủy sau cuộc quân sự Taliban tấn công và tiếp quản Chính quyền Afghanistan ngày 15 tháng 08 năm 2021. Hôm thứ Ba, ngày 22 tháng 02 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết, Hợp chúng quốc đã hạn chế các vật phẩm văn hóa Phật giáo và lịch sử từ Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan, với hy vọng ngăn chặn "những kẻ khủng bố" kiếm lợi, nhưng các chuyên gia bày tỏ lo ngại về những hậu quả không mong muốn.
24/02/2022(Xem: 2539)
Nhà kiến tạo hòa bình, nhà tâm lý học, nhà cải cách xã hội học, nhà giáo dục và Phật giáo Dấn thân nổi tiếng, người Mỹ và được trên thế giới kính trọng, Tiến sĩ Phật tử Paula Green sinh vào ngày 16 tháng 12 năm 1937 tại Hoa Kỳ, đã thanh thản trút hơi thở từ giã trần gian vào ngày 21 tháng 2 năm 2022, hưởng thọ 84 tuổi.
24/02/2022(Xem: 2530)
Tôi học mãi Phẩm 6 về “ Người Hiền Trí “trong kinh Pháp Cú và bài thứ tư trong kinh Trung Bộ “ Sợ Hãi và Khiếp Đảm “ mà vẫn không chán vì càng học càng thấy nhiều lợi ích để tu tập và sửa đổi những tật xấu và lỗi lầm của mình trên đường tu học nhất là khi mình được một đại phước duyên gần gũi một bậc hiền trí . Thú thật ….trong những năm tự nhốt mình trong tháp ngà tôi đã nghiên cứu Thiền, Tịnh, Mật, rất cẩn thận từ ghi chép, nghe nhiều pháp thoại, so sánh kinh sách nhiều tông phái …thế nhưng chưa bao giờ như lúc này tôi cảm nghiệm lời dạy Đức Phật lại thâm huyền và siêu việt hơn bao giờ hết khi phối hợp hai phẩm này trong hai bộ kinh căn bản nhất cho những ai bước trên đường Đạo . Trộm nghĩ dù với tuổi nào khi chưa hoàn tất hay gặt hái được mục đích thành tựu của Trí Tuệ ( DUY TUỆ THỊ NGHIÊP) thì chúng ta hãy cứ bước đi mà chẳng nên dừng lại .
24/02/2022(Xem: 5888)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
22/02/2022(Xem: 3455)
Trong lịch sử, các đại dịch đã buộc nhân loại phải đoạn tuyệt với quá khứ và hy vọng ở tương lai thế giới mới của họ. Điều này không có gì khác lạ. Nó là một cổng thông tin, một cửa ngõ, giữa thế giới đương đại và thế giới tương lai. Nhà văn, nhà tiểu luận, nhà hoạt động người Ấn Độ Arundhati Roy, Đại dịch là một cổng thông tin
21/02/2022(Xem: 2361)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là một đề tài thuyết giảng quen thuộc. Do đó đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng là mình hiểu rõ khái niệm này, thế nhưng thật ra thì ý nghĩa của Bốn Sự Thật Cao Quý rất sâu sắc và thuộc nhiều cấp bậc hiểu biết khác nhau. Bài chuyển ngữ dưới đây đặc biệt nhấn mạnh đến nguồn gốc vô minh tạo ra mọi thứ khổ đau cho con người, đã được nhà sư Tây Tạng Guéshé Lobsang Yésheé thuyết giảng tại chùa Thar Deu Ling, một ngôi chùa tọa lạc tại một vùng ngoại ô thành phố Paris, vào ngày 16 và 30 tháng 9 năm 2004. Bài giảng được chùa Thar Deu Ling in thành một quyển sách nhỏ, ấn bản thứ nhất vào năm 2006.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567