Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Văn Hóa Ứng Xử

21/06/201913:22(Xem: 6966)
Văn Hóa Ứng Xử

chap tay
VĂN HÓA ỨNG XỬ

Thích Phước Hạnh

Nói văn hóa là nói học thức, lối sống, tín ngưỡng, phong tục tập quán, hoặc trong lao động chấp tác hằng ngày…

Văn hóa là một hệ thống có các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua qúa trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với con người, giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh mình.

Trước khi nói văn hóa ứng xử, ta phân biệt một chút văn hóa khác văn vật, khác văn hiến, khác văn minh.

Văn vật là văn hóa chỉ thiên về giá trị vật chất như: nhân tài, di tích, hiện vật…Ví dụ: ta nói đất nước Việt Nam có “Thăng Long ngàn năm văn vật”.

Văn hiến là văn hóa thiên về  giá trị truyền thống lâu đời được lưu giữ về mặt tinh thần cho đến ngày nay như “Việt Nam có  4000 năm văn hiến”.

Văn minh chỉ thiên về giá trị vật chất, trình độ khoa học kỹ thuật cao mang tính quốc tế được gắn bó nhiều hơn ở các nước phương tây đô thị.

Văn Hóa Ứng Xử là cách ứng nhân xử thế phù hợp có văn hóa.

Ở đây, ta nói “Văn Hóa Ứng Xử” là chỉ muốn nhấn mạnh đến lĩnh vực lối sống hằng ngày suốt hai mươi bốn giờ trong một ngày của mỗi người. Cách sống của con người nói lên tầm quan trọng văn hóa của một cá nhân, một gia đình, một dòng họ, một làng xã, một cộng đồng, một dân tộc, một đất nước.

Khi tiếp xúc với ai trong ngày, ta thường xưng hô cho đúng phép xã giao. Nếu không biết ứng xử đúng phép xã giao, tức khắc ta sẽ bị chê thiếu lịch sự, thiếu văn hóa, thiếu hiểu biết…

Chúng ta đang sống ở những đất nước văn minh nhất thế giới, mà không học được gì văn minh cách sống đẹp từ họ. Ví dụ: Ở nước ngoài, nét đẹp nếp sống văn minh là không chen lấn, không to tiếng nơi công cộng, không cự cãi nhau trước mặt người khác, không xả rác, không khạc nhổ, không ăn cắp vặt, đối xử thật lịch sự, sẵn sàng nói lời “xin lỗi” khi bị sai nhầm lẫn, sẵn sàng nói lời “cảm ơn” khi được thi ân giúp đỡ… 

Ta sống ở đâu thì cách sống của ta nó ứng xử theo đó. Sống ở Việt Nam thì ứng xử giống ở Việt Nam, sống ở các nước Phương Tây thì ứng xử giống ở các nước Phương Tây, ta gọi là “Nhập gia tùy tục, đáo giang tùy khúc”. Ngày nay, mặc dù đang sinh sống ở nước ngoài, một bộ phận nhỏ vẫn còn ứng xử thiếu tế nhị (nếu không muốn nói là thô lỗ). Thật đáng tiếc thay!

Tiếng Anh gặp nhau xưng hô “You and Me” hoặc “I and You”. Tiếng Pháp xưng hô “Je” (đọc là jơ: tôi), “Moi” (đọc là moa: tôi) and “Tu” (đọc là tuy: bạn), “Toi” (đọc là toa: bạn). Tiếng Việt xưng hô phong phú hơn: Tôi và Bạn, Anh và Em, Ông và Bà, Cô và Cậu, Bác và Chú… vô số cách nói.

Một hiểu lầm xuất phát từ tiếng Pháp là “Moi” và “Toi” ở trên mà người Việt dịch ra là Mầy và Tao, đọc trại từ tiếng “Moi” và “Toi” mà ra. Trong khi đó “Moi” là tôi, “Toi” là mầy, bạn (chỉ người đối diện). Vậy mà vẫn đảo ngược lại thành Mầy và Tao hoặc là Tao và Mầy hằng ngày. Tiếng “Mầy Tao” trở thành câu chào hỏi xã giao ở cửa miệng của người Việt hồi nào không hay. Thay vì xưng hô Mầy Tao khó nghe thì nên sửa lại theo cách nói được dịch ở trên hợp tai hơn.

Một thói quen thường gặp là hễ càng thân mật thì xưng hô càng tùy tiện bừa bãi, không cần biết người nghe có chấp nhận hay không. Người nghe không phải ai cũng giống nhau, có người lịch sự chẳng nói, mà có nói ra, người nói chủ quan bảo “nói cho thân mật”, người nghe chưng hửng hết ý kiến, lâu ngày trở thành thói quen không sửa được.

Ta xưng hô là cách biểu đạt tôn trọng nhau, chứ không phải xưng hô để dẫn đến thân mật tới mức phải sổ sàng, thô lỗ, tục tĩu bất chấp người nghe là ai. Khi giận, ta quát tháo mắng nhiếc người khác đã đành (không bào chữa cho tính xấu này đâu, phải biết kiểm soát cơn giận mới hay).

Đằng này, nhiều khi chẳng có chuyện gì xảy ra, nói chuyện với nhau bình thường, chẳng ai làm gì mình giận cũng nói như thế: lớn tiếng, tục tĩu, chửi thề, trước khi nói gì ra thì chửi thề trước cái đã, nói riết không thấy dơ miệng mình sao? Người bàng quan hiểu lầm đang có chuyện cãi lộn. Đó là một thói quen xấu có thể (không phải tất cả) xuất phát từ hàng xóm hoặc trong gia đình mà ra. Người nghe lâu ngày trở thành nạn nhân bị tra tấn cực hình trong cuộc sống.

Người Phương Tây có câu “Anh cho tôi biết bạn của anh là ai, tôi sẽ trả lời cho anh biết anh là ai”: người giao du hằng ngày của mình là những thành phần nào thì ta như thế đó. Hễ chơi người tốt thì ít nhiều ta sẽ tốt, hễ chơi người thô lỗ thì ta sẽ thô lỗ. Tính ta như thế thành thói quen như thế, thói quen như thế thì thành bản chất con người của ta như thế. Khi thành tính xấu rồi thì truyền tới con cháu ta cũng như thế. Có tội nghiệp cho con cháu chúng ta không?

Môi trường nào giúp ta hình thành nên thói quen tốt đẹp thì môi trường đó nên gần gũi và đáng sống với nó. Môi trường nào tiêm nhiễm những thói hư tật xấu qua lời ăn tiếng nói, qua cách hành xử thì môi trường ấy nên xét lại. Người có lòng tự trọng và yêu chuộng lối sống có văn hóa có cho vàng họ cũng không ở trong môi trường xấu như vậy.

Ta may mắn được uốn nắn từ nhỏ: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Ta học cách ăn là học cách không tham ăn, “miếng ăn là miếng tồi tàn, hễ ai đụng đến lộn gan lên đầu”, không vì miếng ăn ngon mà giành giựt, học cách nhường ăn cho người khác như em bé 11 tuổi nhường suất ăn của mình cho cụ già xếp hàng sau lưng trong trận sóng thần năm 2011 tại Nhật Bản. Ta học cách nói làm sao cho người nghe êm tai không giận, trước khi nói nên uốn lưỡi bảy lần. Ta học cách gói gém cuộc sống “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Ta học cách mở lòng rộng lượng yêu thương cuộc sống này.

Môi trường nhà Phật là môi trường giáo dục cách sống đầy nhân văn, có văn hóa. Ta không được duyên học vấn ở đời thì ta nên gần gũi Tam Bảo để học “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, hoặc biết sử dụng thuật “Ái ngữ”, tức là nghệ thuật ăn nói cho hợp lòng người, không gây mất lòng người khác. Đây là đóng góp rất lớn của đạo Phật trên thế giới toàn cầu.

Người có học thức, trình độ văn hóa thì không nói lời vô văn hóa. Có người không học hành tới nơi tới chốn nhưng không bao giờ họ nói lời thô lỗ vô giáo dục, đó là nghiệp tốt của họ và chắc chắn họ được hấp thụ lời dạy của Đức Phật.

Do duyên gì đó, ta sinh ra và sống trong một môi trường xung quanh tục tĩu, muốn thoát ra mà thoát không được, đó là nghiệp xấu của mình. Câu nói “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”: gần cái gì thì giống cái đó, không thể giống cái khác được. Sống gần người có văn hóa thì đời sống của ta ít nhiều thấy yên tâm không lo lắng bị tiêm nhiễm cái xấu, ngược lại ta cảm thấy đầy sự bất an và sợ hãi.

Con người không chỉ phát triển bằng thể xác mà còn lớn khôn về mặt tinh thần văn hóa ứng xử nữa. Nếu to con lớn xác mà không có trí khôn thì hóa ra cục thịt biết đi mà thôi. Một thực thể hữu ích cho đời là phải phát triển cân bằng cả hai mặt: thể chất và tinh thần.   

Như vậy, Văn Hóa Ứng Xử là cả một nghệ thuật sống, lối sống lành mạnh giúp con người biết cách xã giao, biết cách hành xử giữa người với người, giữa người với môi trường để giảm thiểu khổ đau trong cuộc sống. Câu nào nói ra từ miệng ta ít nhiều khẳng định con người văn hóa sống của ta như thế. Sống có văn hóa, trước hết, chính ta hưởng hạnh phúc nể trọng từ người khác.Ta phải tập ứng xử ăn nói làm sao để người nghe không xem thường mình, không xem thường cha mẹ, ông bà tổ tiên của mình. Ta muốn sống có văn hóa theo Phật là để làm gương cho con em, giữ gìn thể diện quốc gia Việt Nam cho đẹp với bạn bè quốc tế, đền đáp ơn Cha Mẹ và Tam Bảo trong muôn một.


Thích Phước Hạnh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2014(Xem: 8400)
Hồi Thầy mới vào chùa năm 16 tuổi, trên phương diện danh từ thì mình đã được gọi Bụt Sakyamuni là Bổn Sư (Nam Mô Đức Bổn Sư Bụt Sakyamuni). Bổn Sư (tiếng Bắc là Bản Sư) có nghĩa là Thầy tôi. Nhưng kỳ thực đức Bụt mà mình được gặp khi mới vô chùa không phải là một vị Thầy đích thực mà là một nhân vật rất huyền thoại, đầy phép lạ, đầy thần thông, rất xa cách với con người. Mình không được gặp Bụt của đạo Bụt nguyên thủy mà cũng không được gặp Bụt của đạo Bụt tiểu thừa. Hình ảnh Bụt nguyên thủy là một vị Thầy ăn mặc rất đơn sơ, trải bồ đoàn tọa cụ ngồi trên đất, ngồi pháp đàm, nói pháp thoại và ăn cơm với các Thầy. Mình không gặp được hình ảnh đó, vì vậy trên phương diện danh từ mình được gọi là Thầy tôi nhưng kỳ thực giữa mình với đức Sakyamuni có một khoảng cách rất lớn. Đó là một nhân vật hoàn toàn thần thoại, đầy phép lạ.
31/10/2014(Xem: 8265)
Pháp môn mà mình nói tới đó là pháp môn xây dựng tăng thân, được gọi tắt làdựng tăng. Đó cũng là công trình của Bụt, đó là sự nghiệp của Bụt. Ngay sau khi thành đạo, Bụt đã biết rất rõ rằng nếu không xây dựng được một tăng thân thì mình không thể nào thực hiện được sự nghiệp của một vị Bụt. Vì vậy Ngài đã để ra rất nhiều thì giờ và công sức để xây dựng một tăng thân. Ngay trong năm đầu sau khi thành đạo, Bụt đã xây dựng một tăng thân xuất gia gồm có 1250 vị, và tăng thân này đầu tiên xuất hiện tại một rừng kè ở ngoại ô thành phố Rajagraha. Năm Ngài 80 tuổi, Vua Prasenajit (Ba Tư Nặc) có nói một câu rất hay để ca ngợi Bụt về công trình xây dựng tăng thân ấy. Vua nói: Bạch đức Thế Tôn, mỗi lần con thấy tăng thân của đức Thế Tôn là con lại có niềm tin nhiều hơn ở nơi chính đức Thế Tôn.
31/10/2014(Xem: 7667)
Mùa Xuân ta lên núi Hăm hở làm sơn ̣̣đồng Bỏ con đường khói bụi Cho sách vở vời trông... Rời mái trường Vạn Hạnh, còn đang lang thang dạy giờ ở các trường Bồ-đề, ngong ngóng một xuất học bỗng du học, tôi bất ngờ bị Sư Bà áp giải lên núi, sau lời phán quyết chắc nịch: “Con phải học một khóa tu Thiền ba năm với Thượng Tọa, xong rồi muốn đi đâu cũng ̣̣được... Còn bây giờ, dứt khoát là…Không!”.
28/10/2014(Xem: 7995)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9464)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
24/10/2014(Xem: 15049)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
24/10/2014(Xem: 8634)
Chuyện kinh Phật kể rằng, tự ngàn xửa ngàn xưa, hằng hà sa kiếp trước, có con thỏ ngọc nọ thấy bầy đàn đang lúc giá rét cuối đông, chẳng kiếm được chút rau cỏ gì cho nguôi cơn đói bụng ; thỏ nọ liền “hưng khởi đại bi tâm” nhảy vào đám lửa đang cháy rực hồng, tự biến thân mình thành thịt nướng cho bầy đàn ăn đỡ đói. Khi bầy đàn thỏ no nê thì cũng là khi thân thỏ nọ chỉ còn sót lại mấy miểng xương đen. Phật biết đại bi tâm của thỏ từ đầu, bèn nhặt xương thỏ đem về cung quảng, phục sinh và đặt tên cho thỏ là NGỌC THỐ - có nghĩa là Thỏ Ngọc, một sinh thể có đại bi tâm quý như ngọc; thứ ngọc Phật từng nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bấy giờ, cuộc đời thỏ ngọc ngày đêm yên ả nơi cung trăng, tự thân sớm hôm trau dồi công dung ngôn hạnh khiến biết bao người chung quanh nâng niu, thương yêu chiều chuộng.
23/10/2014(Xem: 13399)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại. Dầu được viết trong nhiều thời điểm khác nhau cho nhiều đối tượng độc giả, tác giả chú trọng đến việc giới thiệu về hình thái đạo Phật nguyên chất, xây dựng niềm tin bằng lý trí, giới thiệu đạo Phật từ góc độ ứng dụng trong đời sống, so sánh những điểm dị biệt và sự vượt trội của đạo Phật đối với các truyền thống và tín ngưỡng khác.
23/10/2014(Xem: 8905)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
23/10/2014(Xem: 10710)
Tục lệ, hay những lễ nghi đã trở thành thói quen, là văn hóa được ước định của một dân tộc. Sự hình thành tục lệ thường chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong dân gian, hoặc do sự thực hành các tín ngưỡng tôn giáo lâu ngày của một cộng đồng. Sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo không chỉ đi sâu vào dân gian, hòa nhập với đời sống, từng bước hình thành nên một bộ quy phạm lễ nghi về “hôn táng hỷ khánh” (dựng vợ gả chồng, chôn cất người chết, thể hiện niềm vui, bày tỏ việc mừng); mà còn có tác dụng thay đổi phong tục đối với các thói quen dân gian mang đậm màu sắc mê tín trong các việc như: tổ chức hôn lễ rườm rà; đoán số mệnh dựa trên bát tự(1); miễn cưỡng tổ chức việc vui trong lúc gia đạo đang gặp rắc rối với mong muốn giải trừ vận xui, tà khí, chuyển nguy thành an, gọi là xung hỷ; thực hành tục minh hôn(2); duy trì lối khóc mộ; xem phong thủy…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]