Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phát Biểu Hàng Năm Của Đức Đạt Lai Lạt Ma

17/06/201920:53(Xem: 4965)
Phát Biểu Hàng Năm Của Đức Đạt Lai Lạt Ma

PHÁT BIỂU HÀNG NĂM CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NHÂN LỄ KỶ NIỆM NGÀY ĐỒNG KHỞI Ở LHASA 10 THÁNG BA NĂM 1959

 

10 Tháng Ba năm 2007

 

Nhân dịp lễ kỷ niệm lần thứ 48 cuộc đồng khởi hòa bình của người Tây Tạng ở Lhasa năm 1959, tôi bày tỏ lòng tôn kính đến tất cả những người Tây Tạng đã đau khổ và những người đã hy sinh mạng sống của họ vì vấn đề Tây Tạng. Tôi dâng lời cầu nguyện cho họ. Tôi cũng khẳng định lòng đoàn kết của tôi với những người đàn ông và đàn bà, những người vẫn tiếp tục đau khổ từ sự đàn áp và những người ở trong nhà tù bây giờ.

 

Năm 2006, chúng ta đã quán sát thấy những sự thay đổi cả tích cực và tiêu cực ở Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Về một mặt, vị thế cứng rắn được tăng cường, đáng chú ý với cuộc vận động phá hoại chống lại chúng ta và thậm chí sự đàn áp hạn chế chính trị ồn ào, cao độ hơn ở Tây Tạng. Về mặt khác, tại chính Trung Hoa, tự do ngôn luận trở thành lan rộng một cách rõ ràng. Đặc biệt, những nhà trí thức Trung Hoa đã làm sinh khởi một ý tưởng rằng thật cần thiết để phát triển một xã hội đầy đủ ý nghĩa hơn căn cứ trên những giá trị tâm linh. Ý tưởng rằng hệ thống hiện tại ở trong một vị trí không thích hợp để tạo nên một xã hội như vậy đang đặt nền tảng; vì thế việc phát triển niềm tin tôn giáo trong phổ quát, và quan tâm trong Phật giáo và văn hóa Tây Tạng trong đặc thù. Điều gì nữa, nhiều người đang bày tỏ mong ước tôi thực hiện một cuộc hành hương đến Trung Hoa và giảng dạy cho họ.

 

Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã lập lại lời kêu gọi cho một xã hội hòa hiệp là đáng ca tụng. Việc nhận ra một xã hội như vậy liên hệ đến việc phát triển lòng tin giữa những con người, vốn chỉ có thể xảy ra khi có tự do ngôn luận, sự thật, công lý và cai trị bình đẳng. Do thế, thật thiết yếu rằng tất cả mọi cơ chế có thẩm quyền ở tất cả mọi trình độ không chi chấp nhận những nguyên tắc này mà phải thật sự đưa chúng vào trong thực hành.

 

Như những mối quan hệ của chúng tôi với Trung Hoa, từ 1974 chúng tôi đã nhận ra rằng cơ hội để mở ra một cuộc đối thoại với Trung Hoa sẽ hiện diện không thể tránh khỏi một ngày này hay một ngày khác. Chúng tôi đã và đang chuẩn bị cho chính mình để đạt được một sự tự trị thật sự mà trong ấy tất cả mọi người Tây Tạng sẽ được thống nhất, như hiến pháp Trung Hoa đã long trọng tuyên bố. Năm 1979, Đặng Tiểu Bình đã gợi ý rằng trừ việc độc lập, tất cả mọi vấn đề liên quan đến Tây Tạng đều có thể giải quyết thông qua đối thoại. Vì điều đó đồng thuận với nhận thức của chính chúng tôi, cho nên chúng tôi đã chọn chính sách Trung Đạo lợi ích hổ tương. Vì lúc ấy, trong hai mươi tám năm, điều đó đã xảy ra, chúng tôi đã theo đuổi chính sách này với sự kiên định và chân thành. nó đã được hình thành sau khi những cuộc thảo luận sâu và phân tích nghiêm chỉnh với mục tiêu phục vụ những quan tâm ngay lập tức và lâu dài của cả người Tây Tạng và Trung Hoa. Nó cũng cống hiến cho sự chung sống hòa bình ở Á châu và bảo vệ môi trường. Chính sách này được tán thành và hổ trợ bởi nhiều người Tây Tạng thực tiển cả ở bên trong và bên ngoài Tây Tạng, cũng như nhiều quốc gia.

 

Lý do chính phía sau đề xuất của tôi cho một khu tự trị chân thật cho tất cả mọi người Tây Tạng được bảo đảm bình đẳng thật sự và để tạo nên một cảm giác thống nhất giữa những người Tây Tạng và Trung Hoa, bằng loại trừ cả chủ nghĩa sô vanh người Hán và chủ nghĩa quốc gia địa phương. Nó cũng sẽ cống hiến cho sự ổn định của xứ sở, cảm ơn sự hổ trợ, tin tưởng và hữu nghị  hổ tương giữa hai dân tộc chúng ta. Nó cũng giúp duy trì sự phong phú về văn hóa và ngôn ngữ của chúng tôi trong một sự cân bằng thích đáng giữa việc phát triển vật chất và tâm linh, vì lợi ích của toàn thể nhân loại.

 

Đúng là hiến pháp Trung Hoa bảo đảm dân tộc tính một khu tự trị dân tộc. Vấn đề là nguyên tắc không được thực hành một cách trọn vẹn. Điều đó giải thích tại sao mục tiêu của nó, vốn là rõ ràng, lại không được thực hiện: bảo vệ bản sắc, văn hóa và ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số. Điều xảy ra trên căn bản giải quyết vấn đề trên các vùng thiểu số là phải theo dân tộc đa số. Kết quả là, dân tộc thiểu số, thay vì được bảo tồn bản sắc của chính họ, văn hóa và ngôn ngữ, đã không có lựa chọn nào khác mà phải tiếp nhận ngôn ngữ và phong tục của dân tộc đa số trong đời sống hàng ngày. Vì thế, hiểm họa của một tiến trình tiêu diệt ngôn ngữ và truyền thống phong phú của những dân tộc thiểu số. Không có gì sai gắn liền với việc muốn phát triển cơ sở hạn tầng, như đường sắt. Ngoại trừ đây là những nguồn gốc của nhiều vấn nạn, vì từ khi đường sắt đi vào hoạt động. Tây Tạng đã trải nghiệm việc tái lập di dân mới Trung Hoa, một sự tăng tốc làm xấu đi môi trường của nó, một sự gia tăng trong ô nhiễm, một sự quản lý sai lầm về nguồn nước và khai thác tài  nguyên thiên nhiên – tất cả những nguyên nhân của sự tàn phá đất nước và hủy hoại sự sống của những cư dân ở đấy.

 

Mặc dù có nhiều đảng viên có học thức, và có thẩm quyền là những người dân tộc thiểu số, đáng tiếc là quá ít người trong họ có được những vị trí lãnh đạo trên cấp độ quốc gia. Một số người trong họ đã bị buộc tội ly khai. Nếu chúng ta có được những lợi ích rõ ràng cho cả những dân tộc đa số và thiểu số, cũng như cho chính quyền trung ương và địa phương, thì một khu tự trị đầy đủ ý nghĩa nên được thành lập. Vì đây là khu tự trị quan tâm đến những dân tộc thiểu số trong cá biệt, cho nên sự đòi hỏi để thấy tất cả những người dân Tây Tạng được đặt dưới một cơ cấu hành chính là chân thành, công bằng và minh bạch. Rõ ràng là đối với thế giới chúng tôi không có chương trình gì dấu diếm. Cho nên đó là một nhiệm vụ thiên nhiên cho tất cả những người Tây Tạng tiếp tục đấu tranh cho đến khi đòi hỏi hợp lý này được hiện thực. Bất chấp là lâu dài như thế nào đi nữa; lòng nhiệt tình và quyết tâm của chúng tôi sẽ duy trì không thay đổi cho đến khi hoàn thành những nguyện vọng của chúng tôi. Cuộc đấu tranh của dân tộc Tây Tạng không phải là một cuộc chiến đấu vì vị thế đặc biệt của một vài cá nhân; đó là một cuộc đấu tranh của cả dân tộc. Chúng tôi đã chuyển biến cơ quan hành chính và cộng đồng lưu vong thành một cơ cấu dân chủ thiết thực vốn thấy một sự kế tục của những lãnh đạo được bầu cử bởi người dân của nó. Vì vậy, chúng tôi đã thiết lập một tổ chức xã hội và chính trị có gốc rễ sâu sắc và đầy năng lượng nhiệt tình sẽ tiếp tục sự đấu tranh của chúng tôi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chung cuộc, những quyết định tối hậu sẽ được thực hiện một cách dân chủ bởi chính những người dân.

 

Vì việc nối lại sự tiếp xúc trực tiếp giữa những người Tây Tạng và Trung Cộng trong năm 2002, những đại diện của tôi đã đưa năm vòng thảo luận toàn diện với những đại diện của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đáp ứng cho vấn đề. Trong những cuộc thảo luận này, cả hai bên có thể trình bày một cách rõ ràng trong hình thức của những sự nghi ngại, ngờ vực, và những khó khăn thật sự cố chấp của cả hai bên. Tuy nhiên, những vòng thảo luận này giúp chúng tôi tạo nên một kênh truyền thông giữa hai bên. Phái đoàn Tây Tạng sẵn sàng tiếp tục cuộc đối thoại vào bất cứ lúc nào và bất cứ nơi nào. Nội các sẽ đưa ra những chi tiết trong báo cáo của nó.

 

Tôi chúc mừng tất cả những người Tây Tạng ở quê hương Tuyết Sơn, những người như những thành viên của Cộng đảng, lãnh đạo, công chức, chuyên gia và những người khác, đã duy trì tâm linh Tây Tạng bằng việc theo đuổi một cách kiên trì nổ lực của họ trong vấn đề của dân tộc Tây Tạng. Tôi bày tỏ lòng ngưỡng mộ sâu sắc của tôi cho người Tây Tạng ở Tây Tạng, những người mặc cho tất cả những thử thách đã hành động để bảo tồn bản sắc, văn hóa và ngôn ngữ Tây Tạng. Tôi ngưỡng mộ quyết tâm và lòng can đảm không lay chuyển trong việc nhận ra nguyện vọng của dân tộc Tây Tạng. Tôi chắc chắn họ sẽ tiếp tục chiến đấu cho vấn đề chung của chúng ta với sự hy hiến và quyết tâm. Tôi kêu gọi tất cả những người Tây Tạng cả ở bên trong và bên ngoài Tây Tạng hãy hành động cùng nhau cho một tương lai bảo đảm căn cứ trên sự bình đẳng và hòa hiệp giữa những dân tộc.

 

Tôi muốn nhân cơ hội này để cảm ơn dân tộc và chính phủ Ấn Độ từ đáy lòng của tôi vì sự hổ trợ rộng lượng, không lay chuyển và vô song của họ.

 

Tôi bày tỏ tất cả sự biết ơn của tôi đến các chính phủ và các dân tộc của cộng đồng quốc tế vì sự quan tâm và hổ trợ mà họ đã mang đến cho vấn đề Tây Tạng.

 

Với những lời cầu nguyện cho hòa bình và sự cát tường đến tất cả chúng sanh.

 

Đức Đạt Lai Lạt Ma

 

*


 Mạn Đà La Thời Luân

 hanh-trinh-tam-linh-cua-toi-027hanh-trinh-tam-linh-cua-toi-028

 

Trong trung tâm của vũ trụ, mạn đà la Thời Luân, Kakachakra, được dâng hiến cho hòa bình . Nó được diễn tả như không gian vô giới hạn, bao hàm tất cả yêu thương, được diễn tả bởi lời cầu nguyện này của Shantideva, được Đức Đạt Lai Lạt Ma trích dẫn ở Oslo vào cuối bài phát biểu nhận giải Nobel Hòa Bình. Lời cầu nguyện này được diễn dịch bằng Tạng ngữ, Hoa ngữ, Pháp ngữ, Anh ngữ, và Việt ngữ:

 

As long as space remains,
As long as sentient beings remain,
Until then, may I too remain
And dispel the miseries of the world

 

Khi không gian vẫn còn tồn tại
Khi chúng sanh vẫn còn hiện hữu
Cho đến lúc ấy, tôi nguyện cũng sẽ hiện diện
Để xua tan khổ đau của trần thế

 

Chữ ký của Đức Đạt Lai Lạt Ma vào ngày 11 tháng Hai, 2008 ở Dharamsala

 

 

Ẩn Tâm Lộ, Friday, June 14, 2019

 

 

 

*

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4708)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5013)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4510)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3741)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7553)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4743)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6171)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5322)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12128)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5350)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]