Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Nhơn Thứ - Ngọn Đuốc Tuệ Soi Sáng Cõi Sương Mù

15/06/201912:08(Xem: 9350)
Hòa Thượng Thích Nhơn Thứ - Ngọn Đuốc Tuệ Soi Sáng Cõi Sương Mù

Danh tăng Việt Nam

 

HÒA THƯỢNG THÍCH NHƠN THỨ

 

NGỌN ĐUỐC TUỆ SOI SÁNG CÕI SƯƠNG MÙ

 

 Danh tăng HT Thích Nhơn Thứ-2

 

          Vào thập niên 20 của thế kỷ XX, khi vùng đất Đà Lạt- Lâm Đồng quanh năm sương mù giá rét còn được mang tên Đồng Nai Thượng (Province du Haut-Donnaï), bốn bế hoang vu với rừng núi ma thiêng nước độc,  với thú dữ đầy hung hiểm, có một tăng nhân tuổi trạc trên hai mươi lăm đã đơn thân lặng lẽ rảo những bước chân chánh niệm tinh tấn khắp lối thấp nẻo cao, khắp vùng sâu chốn vắng, và sau cùng dừng lại giữa một ngọn đồi đầy lau sậy gai cỏ. Phóng tầm nhìn thấu suốt tứ phương tám hướng, Người quyết định chon  mảnh đất ngay dưới chân mình làm nơi thường trú, bắt đầu dựng một thảo am đơn sơ để tu hành, phát đại nguyện đem Chánh Pháp của Như Lai truyền bá từ nơi đây, giương ngọn Đuốc Tuệ sáng ngời soi chiếu mở đường để dẫn dắt chúng sanh tìm về với an lạc, hóa giải bớt đi những khổ đau của cuộc đời…Danh tăng HT Thích Nhơn Thứ-1

         Ngôi thảo am được đặt tên hiệu là Linh Quang, qua một thời gian dài đã thay đổi hình hài sắc tướng, âm thầm chuyển duyên trở thành một thiền tự, cũng chính là ngôi chùa đầu tiên của vùng đất cao nguyên Lâm Viên, là Tổ Đình chung cho Phật Giáo tỉnh Lâm Đồng. Một thành tựu viên mãn đi vào những trang sử vàng của Đạo Từ Bi Hỷ Xả, và của đất nước quê hương. Vị tăng nhân có công đức hoằng dương chánh pháp,  hóa đạo lợi sanh vô cùng to lớn vào buổi sơ khai ấy chính là Cố Hòa Thượng thượng Nhơn hạ Thứ, bậc danh tăng thạc đức thuộc dòng Lâm Tế Liễu Quán đời thứ 43.

          Cố Hòa thượng Thích Nhơn Thứ, pháp danh Tâm Trung, tự Từ Lý, thế danh Trần Xin, sinh năm Giáp Ngọ (1894) tại xã Văn Hòa, tỉnh Phú Yên. Ngài vốn mồ côi cha mẹ từ nhỏ, gặp phước duyên được một phú ông (ở thôn Đại Điền Trung, xã Diên Điền, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa) khi ra Phú Yên mua bò, nhận thấy Ngài bộc lộ tư chất thông minh lanh lợi khác người, nên nhận về làm nghĩa tử, lo cho ăn học tử tế. Thuở thiếu thời, cậu bé họ Trần nhờ thuận duyên gần gũi với chốn già lam ở vùng quê quạnh quẽ, nên thường qua lại vào ra chùa Linh Quang ở Đại An Núi Chúa (huyện Diên Khánh – Khánh Hòa) do Tổ Tu Rau (tức Hòa thượng Thích Nhơn Nguyện) trụ trì,  và dần dà gắn bó với câu kinh tiếng kệ, thân quen với  tiếng mõ hồi chuông, cũng như những bữa cơm chay rau tương thanh đạm, để rồi niềm tin Phật Pháp, niềm tôn kính Tam Bảo ngày càng tăng trưởng… Và khi đã hội đủ nhân duyên tốt lành, ngày trọng đại của một người con Phật cũng đã đến: Ngài phát nguyện thế phát quy y,  xin xuất gia tu học,  hầu Thầy từ khi chùa Linh Quang còn là một ngôi chùa nghèo mái tranh vách đất.. Ngài được được Tổ Tu Rau thâu nhận làm đệ tử, ban cho pháp danh là Tâm Trung, tự Từ Lý. Sau này, Ngài còn có thêm pháp tự nữa là Nghĩa Đạo – Minh Đạo.
Danh tăng HT Thích Nhơn Thứ-3Danh tăng HT Thích Nhơn Thứ-4

        Trong thời gian từ năm 1920 đến 1927, vì Hòa thượng Nhơn Nguyện liên tục nhập thất tham thiền nhập định, nên đã gửi hai đệ tử ra Tổ Đình Thiên Bửu (Điềm Tịnh, Ninh Hòa) thọ pháp nơi Hòa thượng trụ trì Thích Phước Tường.

        Hòa thượng Thích Phước Tường chính là bổn sư của Hòa Thượng Nhơn Nguyện, đã dang rộng tay thâu nhận hai người học trò của đệ tử mình, ban pháp hiệu cho đệ tử Tâm Trung (vai sư huynh) là Nhơn Thứ, và Tâm Đạo (sư đệ) là Nhơn Hưng. Vì lẽ này mà các vị Tỳ Kheo đệ tử của Hòa Thượng Phước Tường  trước kia vốn hàng thúc bá, sau lại trở thành sư huynh đệ của hai vị Nhơn Thứ và Nhơn Hưng.

        Trong suốt thời gian nhập thất, khoảng năm 1924, Hòa thượng Nhơn Nguyện đã trao nhiệm vụ  trông nom thờ phụng ngôi Tam Bảo ở chùa Linh Quang ở Đại An Núi Chúa cho hai đệ tử. Cho đến ngày 12, tháng 7 năm Đinh Mão 1927, Hòa thượng Nhơn Nguyện thiêu thân viên tịch, tông môn đã sắp xếp đề cử ngài Nhơn Thứ trở về chùa Linh Quang để cư tang cho bổn sư, và chính thức trụ trì ngôi già lam này. Ngoài ra, ngài còn được cung thỉnh kiêm trụ trì chùa Sắc Tứ Liên Hoa tọa lạc tại  thôn Xuân Lạc ( thuộc xã Vĩnh Ngọc - Thành phố Nha Trang), vốn là một ngôi cổ tự tổ đình danh tiếng có từ hằng trăm năm qua.
Danh tăng HT Thích Nhơn Thứ-Chua-Linh-Quang

         Từ những mối nhân duyên kể trên, chúng ta quay trở lại với chùa Linh Quang trên vùng đất sương mù lạnh lẽo, mới thấy rõ căn nguyên vì sao chùa cũng mang tên hiệu Linh Quang. Thật ra, từ trước năm 1920, ngài Nhơn Thứ đã vâng lệnh bổn sư  là Tổ Tu Rau  lên khai phá vùng đất mệnh danh “Hoàng Triều cương thổ”. Như nhận một mệnh lệnh thử thách để ấn chứng Đạo Tâm, thể hiện chí nguyện xuất gia tu hành, ngài đã không chút e dè ngại sợ, mà đã dấn thân nhập cuộc một cách vô ngại tự tại. Bằng chí nguyện rộng lớn kiên cường, và tâm bồ đề kiên cố, giữa những khó khăn vây bủa, thiểu thốn ngáng đường, trở ngai  mắc giăng tứ phía, ngài đã từng bước tạo dựng nên một ngôi tự viện trang nghiêm vào năm 1921.

         Vào những năm xa xưa ấy, khi chùa Linh Quang hiển hiện trên đồi hoang đất vắng, cảnh vật xung quanh đã trở mình trước một cuộc biến đổi lớn, ánh quang minh của ngôi Tam Bảo chừng như xua tan hết sương mờ  và rét lạnh, đẩy lùi ám chướng và tối tăm dạt hết ra xa xa… Ngày mà ngôi thảo am nhỏ trước kia chính thức mang tên hiệu Linh Quang Tự, có sự hiện diện chứng minh của chư tôn đức: Hòa thượng Thích Phước Tường (chùa Thiên Bửu –Ninh Hòa- Khánh Hòa), Hòa thượng Thích Từ Nhãn (chùa Sắc Tứ Long Sơn Bát Nhã- Tuy An- Phú Yên), và Hòa thượng Bổn sư Thích Nhơn Nguyện.

         Năm 1933, khi chùa Linh Quang đã trở nên một tự viện thanh tịnh khang trang,  Hòa thượng Nhơn Thứ được triều đình nhà Nguyễn phong chức “Tăng Cang”, để tạo điều kiện thuận lợi cho Ngài hoằng truyền chánh pháp trên vùng đất cao nguyên  Đà Lạt. Đến ngày 28, tháng 9, năm Mậu Dần 1938, vua Bảo Đại đã ban hiệu “Sắc Tứ” cho chùa. Đến nay, tuy biển ngạch Sắc Tứ  đã không còn, do bị cháy trong cuộc binh lửa Tết Mậu Thân 1968,  nhưng bản “Quyết định ban Sắc Tứ” do Tham Tri Bộ Lễ ấn ký vẫn còn nhà chùa lưu giữ cẩn thận. Trong đó ghi rõ: “Thần bộ khâm phụng ý chỉ Đoan Huy Hoàng Thái Hậu nên Sắc Tứ biển ngạch cho chùa Linh Quang thuộc làng Đà Lạt ở Haut-Donnai- Khâm thử khâm tuân- Tham Tri Bộ Lễ Tôn Thất Quảng”.
Danh tăng HT Thích Nhơn Thứ-dai-hung-bao-dien

           Nhờ đức độ và công hạnh sáng ngời, nên  Hòa thượng Nhơn Thứ được triều đình Huế, và tông môn đã cung thỉnh làm “Đàn Đầu Hòa Thượng” vào sau những năm 1938. Công đức của Ngài thật to lớn trong công cuộc hoằng hóa lợi sanh, với đạo hạnh trang nghiêm cùng lòng từ bi rộng trải, nên Ngài đã cảm hóa và giúp đỡ rất nhiều người. Ngài được mọi người biết đến như một vị “ lương y  thiền sư” rất “mát tay”  trong việc chữa các bênh nan y bằng thuốc Nam, và cả chế ngự được các bệnh điên tà trong dân gian. Tiếng lành đồn xa, hương đạo hạnh tỏa lan khắp chốn, hàng hàng lớp lớp người tin Phật đã tìm về xin quy y thọ giáo Ngài mỗi ngày càng đông, đạo tràng ngày càng phát triển lớn mạnh…

         Ngày 10  tháng 3 năm Tân Tỵ (1941), sau một cơn cảm sốt nhẹ, Hòa thượng Nhơn Thứ nhận biết ngày ra đi của mình sắp đến, liền gọi đồ chúng vào dặn dò cặn kẽ, sắp đặt chu đáo hết mọi việc trong ngoài trước sau. Sau đó, Ngài bảo thị giả để một tượng Phật Di Đà ở trước ngực,  rồi từ  giấy phút ấy Ngài chuyên tâm chú niệm, tay lần xâu chuổi, theo dõi những chuyển biến trong nhục thể của mình, gạt bỏ và quên hết ngoại cảnh.

         Ba hôm sau, vào lúc 21h 45 phút, ngày 13 tháng 3, Ngài bảo đệ tử chong đèn đốt nhang, xông trầm trên chánh điện, rồi cử ba hồi chuông trống Bát Nhã. Vừa dứt hồi trống, Ngài đã xả thân ngũ uẩn, an nhiên thị tịch đúng vào 22 giờ, trong tiếng niệm Phật râm ran của môn đồ tăng chúng, trụ thế 48 năm, trên 30 hạ lạp. Bảo Tháp của Ngài được xây lên ngay trong khuôn viên  chùa, đó chính là Tháp Tổ Sư Khai Sơn Sắc Tứ Linh Quang Tự.

          Kế tục Tổ Sư giương cao ngọn Đuốc Tuệ quang minh, hàng đệ tử của Cố Hòa thượng Thích Nhơn Thứ đã luôn giữ thanh quy nghiêm túc, đạo hạnh sáng trong, luân phiên nhau phụng thờ ngôi Tổ Đình, cùng nối tiếp công cuộc hoằng pháp lợi sanh mà Thầy Tổ đã một đời tâm nguyện trăn trở.

 
Tâm Không Vĩnh Hữu
 cẩn bút

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4934)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5075)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4429)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4089)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4688)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4150)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3594)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6875)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6950)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5046)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]