Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tâm Thức Và Bản Chất Sâu Thẩm Của Tâm Thức

12/05/201908:23(Xem: 8420)
Tâm Thức Và Bản Chất Sâu Thẩm Của Tâm Thức

 

TÂM THỨC VÀ BẢN CHẤT SÂU THẨM CỦA TÂM THỨC

 

Nguyên bản: Mind and the Deep Nature of Mind

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma

Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D.

Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

His-Holiness-Dalai-Lama-tam-thuc

*

 

Trong một kinh về tuệ trí hoàn thiện (bát nhã), Đức Phật đã đưa ra tuyên bố thậm thâm như sau:

 

Trong tâm, tâm không tìm thấy được, bản chất của tâm là linh quang.

 

Để thấu hiểu những trình độ ý nghĩa của trong tuyên bố này, chúng ta phải xác định tâm là gì, hãy phản tích bản chất sâu xa của nó, và khảo sát vấn đề những ảnh hưởng tốt và xấu của nó xảy ra như thế nào? Chúng ta hãy thẩm tra những thành phần khác nhau của tuyên bố này.

 

1-    Cụm từ “trong tâm” được quan tâm với tâm là gì – bản chất rực sáng và hiểu biết của nó. Trong chương Bảy, về thiền tập trung, chúng ta đã nói về bản chất rực sáng và hiểu biết của tâm và vấn đề, mặc dù nó tồn tại khắp mỗi thời khắc của tâm, nhưng nhất thiết phải đặt một bên những tư tưởng trước đó và không bắt đầu những thứ mới nhằm để xác định nó.

2-    Khi Đức Phật nói “tâm không thể tìm thấy,” điều này biểu thị rằng bản chất rực sáng và hiểu biết không phải là tính chất sâu xa nhất và cuối cùng của tâm. Đúng hơn, bản chất tận cùng của tâm là “linh quang”, tánh không của sự tồn tại cố hữu của nó.

 

Chúng ta có thể nghĩ là Đức Phật đang nói rằng tâm không tồn tại, nhưng không phải như vậy. Tôi, như người giải thích, đang giải thích tuyên bố này qua những việc làm của chính tâm thức tôi, và bạn, những người đọc, đang đọc bằng những việc làm của tâm thức bạn. Chúng ta luôn luôn đang sử dụng tâm thức, và nó luôn luôn bên cạnh chúng ta, nhưng chúng ta không biết nó nhiều. Vì vậy, mặc dù thật khó để nhận ra tâm, nhưng nó tồn tại và đang được phân tích về phần bản chất sâu thẩm của chính nó.

 

Rõ ràng là tâm tồn tại, nhưng vì nó không được thiết lập như bản chất rốt cùng và xu hướng căn bản của nó, vậy thì mô hình hiện hữu của nó là gì? Bản chất sâu xa của nó chỉ là tánh không đơn thuần của chính sự tồn tại cố hữu của nó. Điều này có nghĩa là những phiền não làm nhiễm ô tâm thức – chẳng hạn như sân hận, tham muốn và thù oán – là tạm thời, và do vậy có thể tách rời khỏi tâm. Một khi những phiền não này được thấu hiểu là cạn cợt và không ở trong bản chất cốt lõi của tâm, thì chúng ta sẽ thấy rằng bản chất sâu thẩm của tâm là linh quang, tánh không.

 

PHIỀN NÃO LÀ NÔNG CẠN, BẢN CHẤT CỦA TÂM LÀ LINH QUANG

 

Kinh điển Phật giáo giải thích những cách khác nhau về tuyên bố, “Phiền não là nông cạn, bản chất của tâm là linh quang.” Tuy thế, đây không phải là một vấn đề mà lời của Đức Phật nói về điều gì đó mơ hồ để ai muốn diễn dịch thế nào cũng được. Đúng hơn, nó có nhiều ý nghĩa rõ ràng và ẩn tàng. Trong Tantra Yoga Tối Thượng có nhiều cách để rút ra ý nghĩa của một tuyên bố khó hiểu. Chúng ta có thể giải thích nghĩa đen của nó, ý nghĩa tổng quát của nó, ý nghĩa ẩn tàng của nó, và ý nghĩa tối hậu của nó.

 

Để làm minh bạch lời tuyên bố của Đức Phật, “Phiền não là nông cạn, bản chất của tâm là linh quang,” trong việc phối hợp với mật thừa Tantra, tôi sẽ trích dẫn Danh Sách Huyền Thuật Mật Tông[1] vốn có một đoạn trong Trì Tụng Những Danh Tự Của Văn Thù Sư Lợi Mật Tông[2]:

 

Những Đức Phật hoàn thiện sinh khởi từ A.

A là tuyệt đỉnh của những mẫu tự.

 

Từ trong bốn ý nghĩa được liệt kê ở trên, tôi sẽ cho một sự giải thích tổng quát về tuyên bố này. Mẫu tự A là một từ phủ định[3] trong Sanskrit. Nó biểu thị tánh không, vốn là sự vắng mặt, hay phủ định, của sự tồn tại cố hữu. Khi Danh Sách Huyền Thuật Mật Tông nói rằng “Những Đức Phật hoàn thiện sinh khởi từ A”, điều này có nghĩa rằng hiện ra từ trong không gian tự thể[4] của tánh không; hay; đặt vào một cách khác, chư Phật hiện ra từ thiền na tánh không của sự tồn tại cố hữu. Qua việc hành thiền, các phiền não được tiêu trừ trong không gian tự thể của thực tại (tánh không của sự tồn tại cố hữu). Tánh không, biểu tượng bằng A, là chủ đề tối thượng và do thế Danh Sách Huyền Thuật Mật Tông nói, “A là tuyệt đỉnh của những mẫu tự.”

 

Cũng thế, từ quan điểm của Tantra Yoga Tối Thượng, mẫu tự A liên  hệ hạt không thể phá hoại trong thân Phật thành tựu. Trong Tantra Yoga Tối Thượng, Quả Phật sinh khởi bởi tập trung nhất tâm trên hạt không thể phá hoại tại trung tâm của tim. Thân tối hậu của một Đức Phật có bản chất của hạt không thể phá hoại. Điều này bổ sung cho sự thấu hiểu của chúng ta về tuyên bố rằng chư Phật hoàn thiện sinh khởi từ mẫu tự A.

 

Hạt không thế phá hoại[5] là gì?  Nó là sự phối hợp của gió rất vi tế và tâm rất vi tế. Tâm biết những đối tượng, trái lại gió, hay năng lượng nội tại, làm thức liên kết các đối tượng. Vì đây là trường hợp, với một phối hợp của gió và tâm cho nên có những sự thay đổi trong thức.

 

TÂM VÔ THỈ

 

Thức là phi vật chất. Nó không màu sắc hay hình thể hay phẩm chất chướng ngại những thứ vật chất. Thực thể của nó chỉ là rực sáng và tri giác, và khi nó gặp gở những điều kiện nào đó (chẳng hạn như khi một đối tượng hiện diện và một năng lực cảm giác đang thể hiện một cách thích đáng), nó phản chiếu đối tượng đó. Rằng tâm thay đổi từng thời khắc, và xuất hiện trong những khía cạnh khác nhau, cho thấy rằng tâm hoạt động dưới ảnh hưởng khác của các nguyên nhân và điều kiện.

 

 Một tâm sinh khởi trong sự lệ thuộc trên một tâm trước của một loại tương tự, vốn đòi hỏi rằng có một sự tương tự không có bắt đầu trước của tâm. Nếu sự sản sinh một tâm không cần lệ thuộc trên những thời khắc trước của tâm nhưng có thể đúng là được sản sinh một cách không có nguyên nhân, thế thì một tâm có thể được sản sinh bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào, điều đó là vô lý. Tương tự thế, nếu thức không được sản sinh như một sự tương tục của một thực thể thức trước và thay vì thế được sản sinh từ điều gì đó vật chất, hoặc là nó luôn luôn, một cách vô lý, được sản sinh hay nó sẽ không bao giờ được sản sinh, vốn cũng là vô lý. Điều này cho thấy rằng thức là một sự tương tục của một thực thể thức trước.

 

Bởi vì thức được căn cứ trong một thời khắc trước của thức, thì không thể có một sự bắt đầu đối với sự tương tục của nó. Không có sự bắt đầu của thức, và không có sự chấm dứt của nó, vô thỉ và vô chung. Sự tương tục này làm cho có thể có một sự chuyển hóa tâm trong những thể trạng được cải thiện. Khi sự tương tục tinh thần được phối hợp trong những trạng thái bất tịnh, thì trải nghiệm của chúng ta bị giới hạn trong thế giới luân hồi. Khi sự tương tục tinh thần thoát khỏi những trạng thái bất tịnh, thì chúng ta có thể thành tựu niết bàn. Trong cách này, tất cả mọi hiện tượng bất tịnh của luân hồi là biến dị của tâm bất tịnh, những hiện tượng thanh tịnh của niết bàn là biến dị của tâm thanh tịnh.

 

NHỮNG TRẠNG THÁI SAI LẦM CỦA TÂM TÙY THUỘC TRÊN SI MÊ

 

Vì như được nói rằng “Trong tâm, không thể tìm thấy được tâm, bản chất của tâm là linh quang,” những trạng thái bất tịnh chẳng hạn như tham muốn và thù oán không phải là một bộ phận của tâm bản nhiên và phải được sản sinh bởi si mê – một thức hiểu sai sự tồn tại cố hữu – hoặc là trong thời khắc hiện tại hay từ một nguồn gốc trước đó. Tất cả những trạng thái sai lầm của tâmthức sai lầm như gốc rể của chúng. Si mê là một mô hình của thức vốn sai lầm tương ứng với đối tượng mà nó chú ý; nó sai về nó; nó không có tri giác có căn cứ như gốc rể của nó.

 

Một sự tỉnh thức sai lầm và một sự tỉnh thức với một nền tảng vững chắc có những cung cách mâu thuẩn với nhau  trong việc thấy rõ các hiện tượng, cho nên thứ này làm tổn hại thứ kia. Khi, trong sự thực hành của chúng ta, chung ta trở nên quen thuộc với những thái độ đúng đắn, thì những trạng thái sai lầm của tâm tự nhiên giảm thiểu cho đến cuối cùng thì chúng bị triệt tiêu.

 

Chính hệ thống của giáo huấn nhà Phật được căn cứ trên sự mâu thuẩn tự nhiên. Chúng ta muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Đau khổ mà chúng ta muốn tránh xuất phát chính yếu từ những thái độ tinh thần, và vì nguồn gốc của nỗi khổ tinh thần là những cảm xúc phiền não hoặc là trực tiếp hay gián tiếp, cho nên chúng ta phải xem xét có bất cứ năng lực nào đối kháng với chúng. Thí dụ, nếu sân hận làm đau khổ, thế thì chúng ta phải tìm ra một năng lực đối trị. Đối với sân hận là từ ái và bi mẫn. Mặc dù và từ ái/ bi mẫn đều là ý thức, cho nên chúng có những cung cách lãnh hội đối kháng với cùng đối tượng. Tương tự thế, nếu một căn phòng là quá nóng, thì không có cách nào làm giảm thiểu sức nóng ngoài việc làm sinh ra hơi lạnh. Giống như nóng và lạnh đối lập nhau, cũng làm như thế với những trạng thái tinh thần, thanh tịnh và bất tịnh. Đối với phạm vi ta phát triển thứ này thì thứ kia giảm thiểu. Do vậy, chúng ta có thể loại trừ những trạng thái sai lầm của tâm. Những sự đối trị tồn tại.

 

SỰ PHỐI HỢP CỦA QUY ƯỚC VÀ CỨU KÍNH

 

Tâm tự nó là một chân lý quy ước (thế đế); thực tại của tâm, tánh không sự tồn tại cố hữu của nó, là chân lý cứu kính (chân đế). Hai chân lý này được chứa đựng trong một thực thể không thể tách rời. Giống như có một hợp thể của hai chân lý, quy ước và cứu kính, với sự tương ứng với tâm, cho nên có một hợp thể của hai chân lý với sự tương ứng với mỗi thứ và mỗi đối tượng. Hiện tướng của nó là chân lý quy ước, và tánh không sự tồn tại cố hữu của nó là chân lý cứu kính.

 

Thực tại cuối cùng được biết qua lý luận của duyên sanh. Thí dụ, vì tâm là một thực thể duyên sanh; cho nên tâm là trống rỗng sự tồn tại cố hữu. Khi chúng ta thấu hiểu tánh không qua lý luận duyên sanh, thì chúng ta nhận ra rằng tất cả mọi hiện tượng là những hợp thể duyên sanh và tánh không; hiện tướng và tánh không được nhận thức như hòa hiệp.

 

Những hiện tướng duyên khởi của các hiện tượng quy ước cung ứng một phạm trù cho giáo huấn từ bi – được gọi là “con đường rộng lớn,” khi có những hiện tướng vô cùng đa dạng. Tánh không của sự tồn tại cố hữu của các hiện tướng cung ứng căn bản cho giáo lý được biết như “con đường thâm sâu”, vì tánh không được biết như bản chất cứu kính của các hiện tượng – hòa bình, thoát khỏi những khái niệm, và của một vị. Qua hành thiền trau dồi hai con đường này – khía cạnh rộng lớn của từ bi và tuệ trí thâm sâu của tánh không – trong một cung cách không thể tách rời, những trạng thái sai lầm của tâm trong sự tương tục của chúng ta trải qua sự chuyển hóa dần dần. Chúng dần dần được tiêu trừ, và những cống hiến tuyệt vời của một tâm thức và thân thể của một Đức Phật hiện ra.

 

Quả Phật được thành tựu qua sự trau dồi phối hợp của cả động cơ và tuệ trí. Tuy nhiên, động cơ và tuệ trí có những dấu ấn tương ứng của chúng trong Quả Phật. Kết quả của việc trau dồi động cơ là Những Thân Thể Sắc Tướng[6] của một Đức Phật, vốn tồn tại  vì lợi ích cát tường của chúng sanh. Dấu ấn của việc trau dồi tuệ trí là Thân Thể Chân Thật [7]của một Đức Phật, vốn là hoàn thành sự phát triển của chính ta. Hình thức chính của động cơ và tuệ trí là gì? Động cơ chính yếu là một mục tiêu chỉ đạo để trở thành Giác Ngộ, được truyền cảm hứng bởi từ ái và bi mẫn và truyền cảm hứng cho việc thực hiện các hành động từ bi chẳng hạn như bố thí, đạo đức, và nhẫn nhục. Mô thức chính của tuệ trí là một thức thông minh nhận ra tánh không của sự tồn tại cố hữu.

 

*

 

Nền tảng của Phật giáo có ba phương diện. Căn bản là hai chân lý, quy ước và cứu kính. Từ hai chân lý này con đường [tu tập] hiện ra với nhân tố kép của động cơ và tuệ trí, mỗi thứ liên hệ với chân lý tương ứng của nó. Quả phẩm, hay kết quả của việc du hành trên con đường, là việc thực chứng hai thân – Thân Sắc Tướng và Thân Chân Thật của một Đức Phật. Để mang điều này cùng với nhau trên căn bản của hai chân lý – quy ước và cứu kính – chúng ta thực hành hai phẩm chất của con đường – động cơ và tuệ trí – vốn đưa chúng ta thành tựu quả phẩm, Thân Thể Sắc tướng và Chân Thật của một Đức Phật.

 

TOÁT YẾU THỰC HÀNH HÀNG NGÀY

 

1-    Hãy xác định bản chất rực sáng và hiểu biết của tâm, không bị mây mờ bởi các tư tưởng.

2-    Thăm dò bản chất thâm sâu của tâm liên tục để khám phá việc vắng mặt của sự tồn tại cố hữu của nó, tánh không của nó, bằng việc phản chiếu trên sự lệ thuộc của tâm vào các nguyên nhân và điều kiện và lệ thuộc trên những thành phần – kể cả sự kiện rằng bất cứ chiều dài nào của thời gian trải qua trong tâm lệ thuộc vào những thành phần trước đó và sau đó của thời điểm đó.

3-    Hãy cố gắng nhận ra tính tương thích của sự xuất hiện của tâm với tánh không của sự tồn tại cố hữu của nó; hãy thấy vấn đề hai điều hổ tương này sự hổ trợ nhau như thế nào.

 

*

 

Ẩn Tâm Lộ, Wednesday, May 1, 2019



[1] Magical Array Tantra

[2] Repetition of the Names of Manjushri Tantra

[3] Negative particle

[4] Noumenal sphere

[5] Indestructible drop

[6] Báo thân và hóa thân

[7] Pháp thân

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/11/2020(Xem: 8210)
LỜI GIỚI THIỆU TẬP THƠ NHẠC “LỐI VỀ SEN NỞ” TỪ THƠ CỦA THÍCH NỮ GIỚI HƯƠNG Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng Nhị vàng bông trắng lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. (Ca dao Việt Nam)
04/11/2020(Xem: 5431)
Trước màn hình computer, lướt qua hàng loạt hình ảnh ngập tràn cảm xúc giữa nạn nhân bão lũ, các đoàn từ thiện của chư Tăng ni và quần chúng tự phát. Với cái sống và chết đang đe dọa trong vùng thiên tai, thế mà bao tấm lòng phương xa miền Nam vẫn can đảm ngập lặng trong nước, chìm đắm trong mưa và gió lạnh, để đến trao tận tay những phần quà tình nghĩa. Ca sĩ Thủy Tiên quên cả ăn, uống vội hộp sữa cho qua cơn đói. Tô mì ăn liền nóng hổi cũng tranh thủ dưới vành nón che mưa, hình ảnh đẹp hơn cả khi bảnh bao dưới ánh đèn màu trên sân khấu; ôi, cái đẹp tuyệt trần tình người mà bao lâu Thủy Tiên đã thấm đượm tinh thần từ bi nơi cửa Phật.
04/11/2020(Xem: 5305)
Ở trong một ngôi nhà do nhà cầm quyền Cộng sản Trung Quốc xây dựng gần thủ đô Lhasa của Tây Tạng, một trong những thành phố cao nhất thế giới, anh Sunnamdanba một cư dân nói với các nhà báo nước ngoài, trong một chuyến du lịch do chính phủ tài trợ về việc Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cải thiện đời sống đến mức nào, và tôn giáo đã trở nên không liên quan.
03/11/2020(Xem: 4754)
Phước Hoa Mây Vẫn Trắng Cỏ Cây Lá Vẫn Xanh Ngàn Năm Hương Sen Tỏa Vườn Ươm Mộng Pháp Lành
03/11/2020(Xem: 6036)
Trong những năm tháng còn theo đuổi thú sưu tầm Tem & “Vật phẩm bưu chính” (phong bì FDC ngày phát hành đầu tiên, bì thư thực gửi, bưu ảnh...) về đề tài “Phật giáo”, tôi hữu duyên gặp và sở hữu được một bưu ảnh (postcard) không dán tem ,cũng như không có dấu nhật ấn của bưu điện, giá trị không cao không quý gì mấy đối với những người chuyên sưu tập tem thư, nhưng với tôi thì tôi cho là... vô giá.
03/11/2020(Xem: 5467)
Viện Đại học Phật giáo Viên (원불교대학원대학교, Won Buddhism Graduate School), một cơ sở giáo dục dựa trên tinh thần sáng lập của tông phái Phật giáo Viên (원불교), Hàn Quốc, nhằm mục đích đào tạo các cán bộ giảng dạy Phật giáo Viên. Viện Đại học Phật giáo Viên đủ điều kiện để nhận những sinh viên có bằng Cử nhân tại các Đại học Wonkwang, Đại học Younsan Sunhak. . . Đây là một trường Đại học được thành lập như một nơi để đào tạo trình độ Thạc sĩ tại Viện Đại học Phật giáo Viên.
02/11/2020(Xem: 6445)
Dù Đức Phật đã là một bậc Vô thượng chánh đẳng giác, nhưng Ngài cũng là một con người như bao nhiêu người khác nên không tránh khỏi nạn sanh lão bệnh tử trong đời này. Là một vị Sa-môn khiêm tốn, Đức Phật đã chọn nơi nhập diệt của mình ở một làng mạc xa xôi hẻo lánh, đó là làng Kushinagar, nơi có liên hệ mật thiết đến cuộc đời tu hành của Ngài trong một kiếp xa xưa. Tuy đã chuẩn bị như thế, nhưng những ngày tháng cuối cùng của Ngài vẫn là những ngày tháng làm việc không ngừng nghỉ. Mặc dù tuổi già sức yếu, nhưng Đức Phật không ngần ngại đi bộ trên những con đường chập chùng xa tắp, lên đèo xuống dốc, băng rừng vượt suối...
02/11/2020(Xem: 6311)
Hằng năm những người con Phật khắp nơi trên thế giới đều làm lễ cúng vía đức Bồ tát Quán Thế Âm thật trang nghiêm vào các ngày âm lịch: - Ngày 19/02 kỷ niệm ngày Bồ tát Quán thế Âm đản sinh. - Ngày 19/06 kỷ niệm ngày Bồ tát Quán thế Âm thành đạo. - Ngày 19/09 kỷ niệm ngày Bồ tát Quán thế Âm xuất gia. Vào Triều Lý tôn Phật giáo Quốc đạo, dùng chủ nghĩa: Từ Bi hiện thực, lý tưởng Bồ tát đạo làm kim chỉ nam, Quốc sách An dân kiện toàn trong mọi lĩnh vực:
02/11/2020(Xem: 5221)
Trong các đề tài trước, chúng ta đã thảo luận về bản đồ của các Phật tử ở Jepara, tỉnh Java, Indonesia. Tuy nhiên, những Phật tử “tồn tại” (ada) ở jepar, tỉnh Java ngày nay, theo các vị bô lão, chỉ sinh sôi và phát triển vào năm 1965. Vậy thì Phật giáo ở Jepara trước năm 1965 có còn dấu tích gì không? Từ quá khứ rất xa xưa trước khi Indonesia “tồn tại” các Vương quốc lớn đã chiến thắng ở quần đảo Nusantara. Jepara là một trong những trung tâm của Vương quốc đã từng chiến thắng. Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia với Nữ hoàng Shima ở ngôi vua cai trị đất nước.
01/11/2020(Xem: 5715)
Chùa Tây Phương (Sùng Phúc Tự) ở huyện Thạch Thất thuộc Hà Tây cũ, nay là Hà Nội, chốn già lam thánh chúng còn lưu giữ đến 60 bức tượng cổ, đã trở thành bảo vật của chùa, và cũng là bảo vật quốc gia. Những pho tượng cổ này đều được tạc bằng gỗ mít sơn son thếp vàng, có tượng được tạc to hơn hình thể dáng vóc của người thường, và tất cả đều toát vẻ uy nghi thanh thoát...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]