Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trung Đạo

12/05/201908:16(Xem: 6216)
Trung Đạo

TRUNG ĐẠO

 

Nguyên bản: The Middle Way

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma

Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D.

Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

His-Holiness-Dalai-Lama-trung-dao

*

 

NHU CẦU CHO CẢ ĐỊNH VÀ TUỆ

 

Kinh luận của Phật giáo nói với chúng ta rằng trên việc thực chứng tánh không, vọng tưởng về sự tồn tại cố  hữu yếu đi, nhưng điều này không phải như sau một sự thực chứng đơn lẻ, ngắn gọn. Nếu ta chưa đạt được nhất tâm (Định lực của tâm thức), thì ta không thể sử dụng chỉ sự thấu hiểu về tánh không để nhổ gốc rể của vọng tưởng về sự tồn tại cố hữu. Đúng hơn, chúng ta cần dấn thân trong việc phân tích hết lần này đến lần khác; qua thiền chỉ, thì tâm thức chúng ta sẽ trở thành mạnh mẽ, sâu sắc, ổn định, và có thể tập trung nhất tâm vào tánh không – vốn dần dần hoạt động để loại bỏ những trình độ thô của nhận thức sai lầm về thực tại.

 

Đây là lý do tại sao kinh điển của Đức Phật cũng như ba bộ Tantra thấp nói rằng định lực (thiền tập trung – chỉ) là một điều kiện tiên quyết cho tuệ giác (sự hiểu biết sâu sắc - quán). Thiền chỉ được sử dụng trong định và thiền quán được sử dụng trong tuệ không bị phân biệt bởi các đối tượng của việc hành thiền; cả hai có thể có hoặc là tánh không hay các hiện tượng quy ước như sự tập trung của chúng. Khác biệt là sự quán sát tánh không từ một thể trạng định đòi hỏi thân thể và tinh thần uyển chuyển sinh ra qua thiền chỉ, trái lại tuệ quán sát tánh không liên hệ thân thể và tinh thần uyển chuyển sinh ra bởi thiền quán với bổ sung liên hệ với tánh không. Mức độ đó của sự uyển chuyển chỉ có thể đạt được sau khi thành tựu trình độ dễ hơn của uyển chuyển được phát sinh từ thiền chỉ. Do vậy, chúng ta cần thành tựu thiền chỉ (Định lực) trước tuệ giác (thiền quán)

 

Mặc dù định lực có thể đạt được qua việc lấy tánh không như đối tượng của nó, nhưng điều này chỉ dành cho những hành giả đã thấu hiểu về tánh không. Tuy nhiên, thông thường những hành giả trước đã đạt được nhất tâm thiền và sau đó có được quan điểm về tánh không thông qua sự phân tích lý luận.

 

NHU CẦU VỀ LÝ LUẬN

 

Tất cả những trường phái của Phật giáo đều đồng ý rằng tiến trình phân tích lý luận vốn dẫn tới một sự kết luận (một sự thực chứng khái niệm nhận thức) phát sinh từ nhận thức căn bản, chia sẻ, trực tiếp. Như một thí dụ để chúng ta xem xét lý luận sau đây:

 

Một cây cỏ không có sự tồn tại cố hữu do bởi nó là một thứ duyên sanh.

 

Chúng ta bắt đầu bởi việc quán chiếu trên sự kiện rằng một cây cỏ là một phép duyên sanh bởi vì sự sản sinh của nó lệ thuộc vào những nguyên nhân và điều kiện nào đó (chẳng hạn như hạt giống, đất phân, ánh sáng mặt trời, và nước), nhưng cuối cùng tiến trình lý luận phải được hổ trợ bằng một nhận thức trực tiếp, hay nó không thể đứng vững. Chúng ta có thể thấy với đôi mắt chúng ta rằng cây cỏ thay đổi; chúng lớn lên, trưởng thành, và cuối cùng khô héo. Trong cảm nhận này, sự suy luận là mù quáng, vì cuối cùng nó phải dựa vào một nhận thức trực tiếp. Sự kết luận tùy thuộc vào lý trí, là thứ vốn hóa ra dựa vào kinh nghiệm căn bản, chia sẻ, không thể chối cải thông qua nhận thức trực tiếp.

 

Những đối tượng có thể biết được có thể được chia thành thứ rõ ràng, hơi mơ hồ, và rất mơ hồ. Nhằm để thấu hiểu một chủ đề rất mơ hồ thì nhất thiết phải dựa trên kinh điển, nhưng ngay cả cho loại liên hệ này thì cũng không đầy đủ khi chỉ trích dẫn một kinh điển như giá trị cho một vấn đề. Chúng ta phải phân tích hoặc là:

 

1-    Có bất cứ mâu thuẩn nội tại nào không trong kinh điển cho chủ đề ấy.

2-    Có bất cứ sự mâu thuẩn nào giữa những gì kinh điển nói về chủ đề ấy và những gì là chứng cứ trong nhận thức trực tiếp.

3-    Có bất cứ mâu thuẩn nào giữa những gì kinh điển nói về chủ đề ấy và những gì có thể thấu hiểu qua suy luận cơ bản, xuất phát từ lý trí.

 

Cho nên ngay cả trong những trường hợp rất mơ hồ này được căn cứ trên kinh điển, phân tích thì cần thiết.

 

Đức Phật đã đặt ra bốn bước cho việc thiết lập sự tin cậy:

 

1-    Không dựa vào con người mà chỉ dựa vào giáo điển (y pháp bất y nhân).

2-    Với việc liên hệ giáo điển, không chỉ dựa vào mặt chữ mà phải dựa vào ý nghĩa (y nghĩa bất y ngữ).

3-    Với việc liên hệ ý nghĩa, không chỉ dựa vào ý nghĩa diễn giải tùy cơ mà phải dựa vào ý nghĩa rốt ráo (y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa).

4-    Với việc liên hệ với ý nghĩa rốt ráo, không chỉ liên hệ vào sự thấu hiểu nhị nguyên mà phải dựa vào tuệ trí nhận thức trực tiếp lẽ thật (y trí bất y thức).

 

Đức Phật cũng đã nói:

 

Giống như vàng, được thử qua việc nung, cắt, và nghiền,

Lời của ta phải được tiếp nhận bởi những hành giả và học giả

Qua việc phân tích nó một cách trọn vẹn,

Chứ không phải vì sự tôn kính [đối với ta].

 

Trong tiến trình của lý luận, thật rất hiệu quả để tuyên bố những hậu quả vô lý của những quan điểm sai lầm nhằm để vượt thắng hiệu lực của ý tưởng sai lầm ấy, và rồi thực hiện một xác nhận chứng cứ. Khi tôi đang học về luận lý học (logic) như một người trẻ tuổi, một học giả một lần đã nói với tôi rằng, cả trong tranh luận (với một Phật tử thừa nhận sự tồn tại cố  hữu) và trong việc hành thiền phân tích của chính ngài, thì nên sử dụng hệ thống tam đoạn luận một cách uyển chuyển chẳng hạn như “Thân thể tôi không tồn tại cố hữu vì nó là một sự duyên sanh.” Tuy nhiên, sẽ tác động hơn để sử dụng một hệ quả vô lý chẳng hạn như “Vì như thân thể tôi không là một sự duyên sanh bởi vì nó tồn tại cố hữu,” vì nó là nền tảng của Phật giáo rằng tất cả mọi hiện tượng là duyên sanh.

 

TÍNH TƯƠNG HỢP CỦA DUYÊN SANH

 

Chính tự Đức Phật, trong việc thiết lập kinh điển, và Long Thọ cùng với những đứa con tinh thần của ngài – Thánh Thiên, Phật Hộ, và Nguyệt Xứng – trong việc luận giải về ý nghĩa của những kinh điển này, đã sử dụng sự kiện rằng các hiện tượng là duyên sanh như một kết luận cuối cùng cho việc thiết lập tánh không. Điều này cho thấy rằng các  hiện tượng trong tổng quát không phải không tồn tại và các hiện tượng vô thường là thích hợp cho việc thể hiện các chức năng.

 

Khi Đức Phật giảng về Bốn Chân Lý Cao Quý, thứ nhất là xác định sự thật về khổ đau, các nguồn gốc, những sự chấm dứt, và các con đường tu tập, và rồi nói:

 

Khổ được nhận ra, nhưng không có gì bị nhận ra. Tập, các cội nguồn của khổ đau bị từ bỏ, nhưng không có gì bị từ bỏ. Diệt, sự chấm dứt được hiện thực, nhưng không có gì được hiện thực. Đạo, con đường tu tập được hành thiền, nhưng không có gì để hành thiền.

 

Ý nghĩa của điều này là mặc dù có những nhân tố trong Bốn Chân Lý Cao Quý là lẽ thật quy ước (và có căn cứ của thế đế) được nhận ra, từ bỏ, hiện thực, và tu tập, nhưng không có gì được nhận ra, từ bỏ, hiện thực, và tu tập một cách rốt ráo. Theo quan điểm của chân lý rốt ráo (chân đế), tất cả những thứ này là vượt khỏi tạo tác; mọi thứ có cùng hương vị trong tánh không của sự tồn tại cố hữu. Trong cách này, Đức Phật đã thiết lập các quan điểm về hai sự thật (nhị đế) – quy ước (thế đế) và rốt ráo (chân đế).

 

Tất cả mọi hiện tượng – các nguyên nhân và hệ quả, hành động và người hành động, tốt và xấu, và v.v… - chỉ đơn thuần tồn tại một cách quy ước, chỉ là sự tồn tại trên danh nghĩa; chúng là duyên sanh. Bởi vì các hiện tượng lệ thuộc trên những nhân tố khác cho sự tồn tại của chúng, cho nên chúng không độc lập. Đây là sự vắng mặt của độc lập – hay tánh không của sự tồn tại cố hữu – là chân lý tối hậu của chính chúng. Chúng ta sẽ đi đến thấu hiểu tánh không chân thật này của sự tồn tại cố hữu khi chúng ta trở thành không hài lòng với những hiện tướng đơn thuần và chúng ta sẽ sử dụng sự phân tích để thăm dò bên dưới [bề mặt của hiện tượng].

 

Khi chúng ta hoàn toàn thấu hiểu hiện tướng và tánh không, thì ta cũng sẽ thấu hiểu rằng chúng ở trong sự hòa hiệp với nhau. Hiện tướng không phá vở tánh không, và tánh không không phá vở hiện tướng. Không thông hiểu điều này thì ta có thể tin tưởng trong đạo đức, không đạo đức, nhân và quả, và v.v…, nhưng sau đó không thể tin tưởng tánh không. Tương tự thế, chúng ta có thể nghĩ rằng chúng ta thông hiểu tánh không, nhưng rồi thì không thể tin tưởng trong những sự kiện của nhân và quả - hổ trợ hay tổn hại, vui sướng và đau khổ - vốn sinh khởi lệ thuộc trên những điều kiện. Không có sự thấu hiểu thích đáng, thì tánh không và hiện tướng dường như ngăn trở nhau.

 

Tuy nhiên, các hiện tượng thì trống rỗng sự tồn tại cố hữu bởi vì chúng lệ thuộc cho sự tồn tại của chúng trên những điều kiện khác. Ngược lại, các hiện tượng có thể biểu hiện chức năng bởi vì sự tồn tại cố hữu của chúng thì trống rỗng tính vững chắc. Nếu các hiện tượng không trống rỗng sự tồn tại cố hữu, nếu chúng thật tồn tại bởi năng lực của chính chúng, thế thì chúng không thể bị tác động bởi những nguyên nhân và điều kiện khác – chúng không thể thay đổi. Trong trường hợp ấy, chúng sẽ không thể tạo ra sung sướng hay đau khổ, giúp đở hay làm tổn hại. Tốt và xấu sẽ là không thể.

 

Sự thực chứng hoàn toàn duyên sanh sẽ đem theo nó sự thông hiểu gấp đôi về hiện tướng và tánh không của sự tồn tại cố hữu. Những cực đoan của sự hoàn toàn không hiện hữu và tồn tại cố hữu đồng thời bị tan biến mất bởi sự thấu hiểu cặp đôi này. Việc thông hiểu các hiện tượng sinh khởi ngăn ngừa sự tin tưởng trong cực đoan hư vô  bằng việc cho phép các đối tượng và  chúng sanh thể hiện chức năng trong thế giới này – cho phép nguyên nhân và hệ quả của nghiệp. Việc biết rằng các hiện tượng là phụ thuộc cũng ngăn ngừa việc tin tưởng trong cực đoan của sự tồn tại cố hữu bằng sự loại trừ việc cho rằng các hiện tượng tồn tại trong bản chất của chính chúng. Qua việc thông hiểu hai chân lý này, chúng ta đi đến trung đạo.

 

Bát Nhã Tâm Kinh

 

Mối liên hệ giữa các đối tượng và tánh không của chúng là gì? Chủ đề thậm thâm này được diễn tả trong tuệ trí hoàn thiện (Bát Nhã), được gọi là Tâm Kinh, vốn được trì tụng và quán chiếu hàng ngày khắp các nước Đại thừa Phật giáo, chẳng hạn như Trung Hoa, Nhật Bổn, Đại Hàn, Mông Cổ, và Việt Nam. Đây là một trình bày ngắn gọn và súc tích của Đức Phật về việc tuệ trí được đòi hỏi để chiến thắng các vấn nạn và gốc rễ của chúng và – trong sự kết hợp với một động cơ trực tiếp khác và những hành động từ bi – để thành tựu sự toàn tri toàn giác của một Đức Phật. Đây là toàn bộ Tâm Kinh:

 

Kính lễ sự chiến thắng hoàn thiện siêu việt của tuệ trí.

 

Đây là những điều tôi đã nghe: Vào một thời, Đấng Chiến Thắng Siêu Việt đang cư ngụ cùng với đại chúng tu sĩ và đại chúng Bồ tát trên núi Linh Thứu ở thành Vương Xá. Vào lúc ấy Đấng Chiến Thắng Siêu Việt đang nhập đại định làm minh bạch các hiện tượng được gọi là “trực giác thậm thâm”. Cùng lúc ấy, Đại sĩ Bồ tát, Quán Tự Tại Thượng nhân, cũng đang quán sát sự thực hành tuệ trí hoàn thiện thậm thâm và đang quán chiếu những tập hợp này (sắc, thọ, tưởng, hành, thức[1]) như trống rỗng sự tồn tại cố hữu, không hơn không kém.

 

Sau đó, qua năng lực của Đức Phật, tôn giả Xá Lợi Phất nói với Đại sĩ Bồ tát, Quán Tự Tại Thượng nhân:

 

Một người con của dòng dõi hoàn hảo – người mong ước thực hành tuệ trí thậm thâm – phải tu tập như thế nào?

 

Đại sĩ Bồ tát, Quán Tự Tại Thượng nhân, trả lời với Xá Lợi Phất:

 

Này Xá Lợi Phất, những người con trai và con gái của dòng dõi hoàn hảo, những người mong muốn thực hành tuệ trí thậm thâm hoàn thiện nên quán chiếu [những hiện tượng] như sau. Họ nên quán chiếu một cách đúng đắn và triệt để năm tập họp uẩn này như trống rỗng sự tồn tại cố hữu, không hơn không kém. Sắc là tánh không, tánh không là sắc. Tánh không không khác sắc; sắc không khác tánh không. Tương tự thế, thọ, tưởng, hành, thức, cũng đều trống rỗng.

Này Xá Lợi Phất, trong cách ấy tất cả mọi hiện tượng là trống rỗng – không đặc trưng, không sanh, không diệt, không nhiễm ô, không tách rời khỏi nhiễm ô, không giảm, không tăng. Do thế, này Xá Lợi Phất, trong tánh không không sắc, không thọ, không tưởng, không hành, không thức, không mắt, không tai, không mũi, không lưỡi, không thân, không tâm, không sắc, không thanh, không hương, không vị, không đối tượng có thể chạm, không những hiện tượng [khác]. Trong tánh không không có thành phần của mắt hoàn toàn đến không thành phần của tinh thần và hoàn toàn đến không thành phần của ý thức. Trong tánh không không có vô minh và không sự diệt tận của vô minh hoàn toàn đến không sự diệt tận của già và chết. Tương tự thế, trong tánh không không khổ, tập, diệt, đạo; không tuệ trí cao thượng, không thành tựu và cũng không có không thành tựu.

 

Do vậy, này Xá Lợi Phất, vì chư vị Bồ tát, những bậc đại nhân, không có thành tựu, họ nương tựa và an trú trong tuệ trí hoàn thiện thậm thâm này. Tâm các ngài không chướng ngại, và không sợ hãi; đã hoàn toàn vượt qua tri kiến sai lầm, các ngài đi đến niết bàn rốt ráo. Ngay cả tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai trở thành tỉnh thức một cách hiển nhiên, hoàn toàn trong sự Giác Ngộ vô thượng, hoàn toàn, hoàn thiện cũng dựa vào tuệ trí thậm thâm hoàn thiện này.

 

Do thế, chân ngôn của tuệ trí hoàn thiện là chân ngôn của đại tri thức, chân ngôn vô thượng, chân ngôn vô song, chân ngôn tận diệt mọi đau khổ. Chân ngôn được biết rằng vì nó không sai, nó là đúng đắn. Tuyên thuyết chân ngôn của tuệ trí hoàn thiện:

 

Thật sự là như vậy, tiến tới, tiến tới, tiến vượt tới, tiến vượt tới triệt để, thành tựu Giác Ngộ.

Tadyata gate gate paragate parasamgate bodhi svaha.

 

Trong cách ấy, này Xá Lợi Phất, Bồ tát đại nhân nên tu tập trong tuệ trí hoàn thiện thậm thâm.

 

Sau đó, Đấng Chiến Thắng Siêu Việt xuất định và nói với đại sĩ Bồ tát, Quán Tự Tại thượng nhân:

 

Tốt lắm, tốt lắm, tốt lắm. Những người con của dòng dõi hoàn hão, là như vậy, là như vậy. Đúng như lời ông trình bày, tuệ trí hoàn thiện thậm thâm nên được thực hành. Ngay cả những Đức Thế Tôn cũng ca ngợi việc này.

 

Đấng Chiến Thắng Siêu Việt đã tuyên bố điều này, tôn giả Xá Lợi Phất, đại sĩ Bồ tát Quán Tự Tại, tất cả chúng hội chung quanh, và các chúng sanh – kể cả các hàng trời, người, a tu la, và chúng hương thực – cũng ngưỡng mộ và ca ngợi về điều Đấng Chiến Thắng Siêu Việt đã nói.

 

Sắc Và Tánh Không

 

Rút ra từ một truyền thống lâu dài của những luận giải Ấn Độ và Tây Tạng về Bát Nhã Tâm Kinh tôi sẽ đưa ra một vấn đề để suy nghĩ về đoạn văn trung tâm của nó: “Sắc là tánh không; tánh không là sắc. Sắc không khác tánh không; tánh không không khác sắc.” Sự trình bày súc tích, mạnh mẽ này chứa đựng nhiều ý nghĩa:

 

1-    Tất cả mọi người và mọi vật lệ thuộc trên các nguyên nhân của chúng và trên những bộ phận của chúng và không thể tồn tại một cách độc lập khỏi chúng. Chúng là duyên sanh; do vậy chúng thì trống rỗng sự tồn tại cố hữu. Vì tất cả mọi hiện tượng là duyên sanh lệ thuộc, cho nên chúng có một bản chất tánh không.

2-    Ngược lại, khi chúng sanh và mọi vật không có sự độc lập hay bản chất cố hữu, thì chúng phải dựa vào những nhân tố khác. Chúng phải là duyên sanh lệ thuộc.

3-    Tánh không của các sắc tướng không tách rời khỏi sắc tướng. Tự chính các sắc tướng, vốn được sanh xuất và hoại diệt qua sự hiện diện của những điều kiện, thì bản chất của chúng là trống rỗng sự tồn tại cố hữu.

4-    Việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu này là thực tại rốt ráo của chúng, mô thức không thay đổi của chúng, mô thức tồn tại tối hậu của chúng.

5-    Tóm lại, sự hình thành và hoại diệt, tăng và giảm, và v.v… của các sắc tướng là có thể vì các sắc tướng là trống rỗng sự hiện hữu tự lực. Các hiện tượng chẳng hạn như các sắc tướng được nói là hé nở từ trong phạm vi tự nhiên của tánh không.

 

Kết quả, Bát Nhã Tâm Kinh nói, “Sắc là tánh không, tánh không là sắc; sắc không khác tánh không, tánh không không khác sắc.” Trong cách này, tánh không và duyên sanh tương khởi được cho thấy là hòa hiệp.

 

Tóm lại, các sắc tướng không phải trống rỗng do bởi tánh không, chính tự các sắc tướng là trống rỗng. Tánh không không có nghĩa là một hiện tượng là trống rỗng khi là một đối tượng nào khác nhưng rằng tự chính nó là trống rỗng sự tồn tại cố hữu. Rằng một sắc tướng là tánh không nghĩa là bản chất rốt cùng của một sắc tướng là vắng mặt tự nhiên của sự tồn tại cố hữu của chính nó, bởi vì các sắc tướng là duyên sanh tương khởi, cho nên chúng là trống rỗng một thực thể độc lập tự lực. Tánh không ấy là sắc tướng nghĩa là sự thiếu vắng bản chất của sự tồn tại cố hữu – vốn là sự vắng mặt của một nguyên tắc tự lực – làm cho các sắc tướng có thể là các sắc tướng vốn là biến dị của nó hay vốn được thiết lập từ nó trong sự lệ thuộc trên những điều kiện. Vì các sắc tướng là những cơ sở của tánh không, cho nên tánh không là sắc; các sắc tướng xuất hiện như những sự phản chiếu của tánh không.

 

Trong kinh nghiệm của tôi thì thật dễ dàng để thấu hiểu rằng vì mọi thứ là duyên sanh cho nên chúng trống rỗng sự tồn tại cố hữu hơn là thấu hiểu rằng vì mọi thứ là trống rỗng, cho nên chúng phải là duyên sanh. Mặc dù, một cách trí tuệ, tôi biết điều sau rất rõ, nhưng kinh nghiệm về trình độ của cảm nhận là khó khăn hơn. Ngày nay, tôi thường phản chiếu về một thông điệp của Long Thọ trong Tràng Hoa Quý Báu (Bảo Hành Vương Chính Luận):

 

Một con người không phải đất, không phải nước,

Không phải lửa, không phải gió, không phải không gian.

Không phải thức, không phải các thứ ấy,

Người nào ở đấy khác hơn những thứ này?

 

Trước nhất ngài xem những yếu tố vật lý của thân thể - đất (những thứ cứng), nước (chất lõng), lửa (hơi nóng), gió (không khí), và không gian (khoảng không chẳng hạn như cổ họng) – có thể là tự ngã. Tiếp theo ngài thẩm tra thức. Sau đó ngài xem tập họp của tất cả những thứ này có phải là tự ngã không. Cuối cùng, ngài hỏi một cách hùng biện rằng tự ngã có phải khác hơn những thứ này không. Không có cách nào trong đây mà có thể tìm ra tự ngã.

 

Rồi thì Long Thọ không lập tức đưa ra kết luận là tự ngã không thật. Đúng hơn, ngay sau thi kệ ấy, ngài nói rằng tự ngã không phải không tồn tại nhưng là duyên sanh vốn là được thiết lập trên sáu thành phần được nói ở trên (đất, nước, gió, lửa, không, và thức). Sau đó, trên căn cứ trên sự kiện lệ thuộc này, ngài đưa ra kết luận rằng tự ngã là không thật:

 

Qua hiện hữu [được thiết lập lệ thuộc trên] một hợp chất của sáu thành phần.

Một con người là không thật.

 

Ở đây, “không thật” không chỉ có nghĩa là tự ngã không thể tìm thấy được khi tìm kiếm trong hay riêng rẻ từ sáu thành phần. Long Thọ đang đưa ra vấn đề rằng mặc dù tâm thức nhận ra tánh không của sự tồn tại cố hữu thấy chỉ là sự vắng mặt đơn thuần, nhưng tâm thức ấy thúc đẩy một sự thấu hiểu rằng tự ngã là một thứ duyên sanh. Tôi cảm thấy rằng cung cách ngài trình bày điều này là tác động trọn vẹn, tránh cả cực đoan chấp rằng tự ngã tồn tại một cách cố hữu và cực đoan chấp rằng tự ngã hoàn toàn không tồn tại.

 

Giống hai mặt của một bàn tay, khi nhìn vào một cách bằng việc thẩm tra bản chất sâu thẩm của nó, có tánh không của sự tồn tại cố hữu, nhưng khi nhìn từ mặt kia, có hiện tướng của chính một hiện tượng. Chúng là một thực thể. Do vậy, sắc là tánh không, và tánh không là sắc.

 

Chúng ta phải có thể thấu hiểu rằng giá trị của tánh không cũng là ý nghĩa của duyên sanh. Chúng liên hệ một cách sâu sắc. Khi tuệ quán vào tánh không của ta lớn mạnh rõ ràng hơn, thì ta sẽ càng ngày càng thấy rằng các đối tượng lệ thuộc vào những nguyên nhân và điều kiện và trên những thành phần của nó hơn, và chúng mang đến vui sướng và khổ đau vì chúng không tồn tại một cách cố hữu. Nếu chúng ta đi đến cảm nhận rằng mọi thứ là vô dụng bởi vì chúng là trống rỗng, thì ta đang lầm lỗi tánh không với chủ nghĩa hư vô. Một sự thấu hiểu đúng đắn tánh không có nghĩa là việc nhận ra vấn đề chúng ta phải dựa trên nguyên nhân và hệ quả như thế nào. Sự thấu hiểu tất nhiên và trọn vẹn tánh không có nghĩa là một sự thấu hiểu thậm thâm về sự liên kết của hiện tướng và tánh không.

 

*

 

Sự thấu hiểu tánh không là vô cùng to lớn, có phải không? Nó có thể phục vụ như một sự đối trị với nhận thức sai lầm về sự tồn tại cố hữu và tuy thế trong chính nó nó cũng hổ trợ trong một sự thấu hiểu rộng lớn hơn về nguyên nhân và hệ quả. Đó là một sự thấu hiểu thật sự về tánh không. Thật không thể giải thích giá trị của sự thực chứng về tánh không trong phạm vi của việc chỉ nghe và đọc một giải thích. Nó là điều gì đó mà ta phải làm việc trải qua một thời gian dài cùng với việc thực tập đạo đức – tránh việc làm tổn hại và mở rộng từ bi – và qua việc thỉnh cầu chư Phật, chư Bồ tát, và những bậc thầy khác hổ trợ trong việc vượt thắng các chướng ngại. Chúng ta cần nhiều nguyên nhân tích cực.

 

*

 

TOÁT YẾU THỰC HÀNH HÀNG NGÀY

 

Thường xuyên phản chiếu trên vấn đề các hiện tượng sinh khởi trong việc lệ thuộc các nguyên nhân và điều kiện như thế nào, và hãy cố gắng để thấy vấn đề điều này tương phản với cung cách mà con người và sự vật xuất hiện là thật thuần nhất như thế nào, để tồn tại trong bản chất của chính chúng, để tồn tại một cách cố  hữu. Nếu ta thiên về chủ nghĩa hư vô, thì hãy phản chiếu hơn về duyên sanh. Nếu, bằng việc tập trung vào các nguyên nhân và điều kiện, ta nghiêng về việc củng cố  sự tồn tại cố hữu của các hiện tượng, thế thì hãy đặt nhấn mạnh hơn về vấn đề sự lệ thuộc tương phản với hiện tướng thật thuần nhất này. Chúng ta chắc chắn sẽ được kéo ra khỏi một phía đến phía kia; trung đạo chân thật phải cần thời gian để thấy.

 

*

Ẩn Tâm Lộ, Thursday, April 25, 2019

 


[1] Hình sắc, cảm giác, những phân biệt, các nhân tố cấu thành, và thức.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/10/2017(Xem: 11398)
Giữa tháng 9 năm 2017, chúng tôi đi Paris, nước Pháp, để thăm gia đình và bạn bè, đã 10 năm chưa có dịp gặp lại. Thi và tôi đã để ra 3 ngày đi thăm vợ chồng người bạn của Thi khi còn học ở trường Trung học Gia Long - Saigon, vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. Chị Hồng và anh Ngọc đang ở tại thành phố Oberhausen. Đây là thành phố nằm trong vùng kỹ nghệ sông Ruhr thuộc tiểu bang NordRhein- Westfalen, phía Tây-Bắc nước Đức.
30/10/2017(Xem: 10019)
Dưới đây là bài viết của Lạt-ma Denys tóm lược một số các bài thuyết giảng của chính tác giả tại ngôi chùa Tây Tạng Karma Ling, tọa lạc trong vùng núi Alpes trên đất Pháp. Bài viết nêu lên một sự hiểu biết mang một tầm quan trọng vô song trong Dharma/Đạo Pháp của Đức Phật, đó là khái niệm "Tương liên, tương tác và tương tạo" giữa tất cả mọi hiện tượng dù vô hình hay hữu hình, thuộc thế giới bên ngoài hay bên trong tâm thức một cá thể. Tiếng Pa-li gọi khái niệm này là Paticca-samuppada, tiếng Phạn là Pratitya-samutpada, tiền ngữ "pratitya" có nghĩa là "lệ thuộc vào" [một thứ gì khác], hậu ngữ "samutpada" có nghĩ là "hiện lên" hay "hình thành"..., Các ngôn ngữ Tây Phương gọi khái niệm này là: Interdependence, dependent origination, dependent arising, dependent co-production, conditioned co-production, conditioning co-production, v.v.; kinh sách Hán ngữ gọi là "Lý duyên khởi". Có thể tạm dịch sang tiếng Việt là "Nguyên lý tương liên, tương tác và tương tạo", tuy nhiên cũng có thể gọi vắn
27/10/2017(Xem: 10302)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ. Nhỏ như chuyện bất hoà khó chịu xảy ra liên tục với người xung quanh. Nhỏ như yêu thương người này ghét bỏ người kia một cách tự nhiên, hay người này cực khổ chăm sóc nuôi dưỡng người kia mà bị người kia càm ràm nặng nhẹ gây khó dễ hết chuyện này sang chuyện khác, hoặc chính bản thân mình đau ốm bệnh hoạn triền miên chạy chữa khắp nơi mà không dứt bệnh. Lớn như chuyện con cái trong nhà không nghe lời dạy dỗ của cha mẹ, ra ngoài xã hội quậy phá phạm luật chịu cảnh tù tội khiến kẻ làm cha làm mẹ chịu nhiều lo âu và đau khổ.
26/10/2017(Xem: 9793)
Tông Câu-xá ngày nay không còn, mặc dù trước kia, tông ấy đã có một thời hưng thịnh với rất nhiều người tu tập theo. Tuy nhiên, ảnh hưởng sâu sắc của tông này cho đến nay vẫn còn rất rõ rệt trong Phật giáo. Tên gọi Câu-xá của tông này vốn được phiên âm từ tiếng Phạn là Kośa, có nghĩa là “kho báu”. Đây cũng là tên gọi một bộ luận nổi tiếng của Bồ Tát Thế Thân. Tên tiếng Phạn của bộ luận này là Abhidharmakoa-stra, phiên âm là A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận, và là giáo lý căn bản của Câu-xá tông. Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ. Ngài là em ruột của Bồ Tát Vô Trước, người đã sáng lập ra Duy thức tông. Câu-xá tông là một tông thuộc Tiểu thừa, trong khi đó Duy thức tông là một tông Đại thừa. Ban đầu, ngài Thế Thân học theo giáo lý Tiểu thừa, thuộc Nhất thiết hữu bộ, là một trong 18 bộ phái Tiểu thừa đầu tiên của Ấn Độ đã phân chia sau khi Phật nhập diệt khoảng gần 200 năm. Ngà
23/10/2017(Xem: 29302)
Tin vui: Tế bào ung thư bị tiêu diệt trong 42 ngày bằng ly nước ép đã thành công ngoài mong đợi, cả thế giới đang mở tiệc để ăn mừng, Rudolf Breuss đã dành cả cuộc đời để tìm cách chữa bệnh ung thư và cuối cùng vị nhân sĩ người Áo này đã thành công.
23/10/2017(Xem: 101995)
Gần hai tuần qua chúng ta nghe tin tức phóng sự trên các hệ thống truyền thanh và truyền hình trên toàn quốc Hoa Kỳ về cảnh cháy rừng khủng khiếp ở vùng bắc San Francisco bang California. Theo báo cáo cách đây 4 ngày thì khoảng 250,000 km2 diện tích bị cháy (tương đương với diện tích tiểu bang New York). Nhà cửa bị cháy, 43 người chết, hơn 200 người mất tích, và gần 40,000 người phải di tản. Hiện nay đám cháy vẫn còn tiếp diễn nhưng ở một vài nơi cư dân di tản đã được phép trở về lại nhà của mình.
17/10/2017(Xem: 8566)
Văn hóa Phật giáo tại hội sách Frankfurt Book Fair lớn nhất thế giới 2017 Đây là lần đầu tiên 2 chúng tôi đi Đức và cũng là lần đầu tiên đến với hội sách lớn nhất thế giới Frankfurt Book Fair. Chúng tôi lại được Thầy của chúng tôi, TS Nguyễn Mạnh Hùng trực tiếp dẫn đi. Một tuần ở hội sách chúng tôi mệt lừ nhưng ai cũng hạnh phúc vì chúng tôi học được rất nhiều và hơn thế nữa những trải nghiệm từ nhiều góc độ làm chúng tôi trưởng thành hơn. Nhưng trong bài này, chúng tôi chỉ chia sẻ 1 góc rất nhỏ về văn hóa Phật giáo ở đây trong những ngày qua.
17/10/2017(Xem: 7835)
Niềm vui của việc gặp gở những người ta yêu, nổi buồn của việc mất mát người thân, sự phong phú của của những giấc mơ đầy sức sống, sự an bình của những bước chân qua khu vườn vào một ngày xuân, sự hoàn toàn an định trong một thể trạng thiền tập sâu xa – những thứ này và những thứ nọ giống như chúng cấu thành một thực tại kinh nghiệm của chúng ta về [tâm] thức. Bất chấp nội dung của bất cứ kinh nghiệm nào trong ấy là gì, thì không ai trong tâm nhạy cảm của họ có thể nghi ngờ về thực tại ấy.
15/10/2017(Xem: 11493)
Giới đàn là một trong những sinh hoạt đặc thù của Tăng-già, được quy định hết sức chặt chẽ trong Luật tạng. Tuy nhiên, ở một số địa phương, việc thực hiện giới đàn chưa được quan tâm một cách nghiêm túc cần thiết. Sau đây là một trong những hiện tượng như thế. Từ lá thư hoài nghi của một tân giới tử Tỳ-kheo-ni… Vào một buổi chiều tháng 12 gần cuối nămdương lịch, người viết tới thăm Hòa thượng Luật sư Thích Minh Thông tại Giới đàn viện Huệ Nghiêm. Vì là chỗ Thầy trò, cũng là để học hỏi và trao đổi giới luật với ngài nên chúng tôi thường xuyênlui tới mỗi khi có dịp. Lần này vào thăm ngài, bàn trà chưa kịp rót ra như mọi khi thì Hòa thượng đã vội đến bàn làm việc, lục tìm trong chồng thư từ ra một bức thư chuyển phát nhanh. Hòa thượng trở lại bàn trà và mở lá thư ra đọc cho người viết nghe nội dung bức thư ấy.
11/10/2017(Xem: 7480)
Sáng nay, mở cửa đón một ngày mới, ngày mới có thực đang hiển hiện rõ ràng trước lục căn cùng lúc tiếp nhận, nên xin đừng nói đó là ngày của cõi chiêm bao hư ảo, của cõi vô thường giả tạm, tôi lại nhận được tin thêm một người hàng xóm đã qua đời. Một người mẹ, người bà, đã tám mươi năm sống với thế gian hỗn độn lổn ngổn sướng khổ buồn vui. Hết nợ hết duyên kiếp này rồi, thì bà xuôi tay nhắm mắt vĩnh biệt trần gian mà ra đi thôi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]