Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Có Thể Tu Theo Ngài Phổ Hiền Được Không?

30/03/201908:02(Xem: 7221)
Có Thể Tu Theo Ngài Phổ Hiền Được Không?

Bo Tat Pho Hien 4
Có Thể Tu Theo Ngài Phổ Hiền Được Không?

Trong pháp hội Hoa Nghiêm, ngài Phổ Hiền Bồ Tát sau khi khen ngợi công đức thù thắng của Phật đã nói với đại chúng rằng muốn trọn nên công đức như Phật thì phải tu mười điều rộng lớn như sau:

Một là lễ kính các đức Phật.
Hai là khen ngợi các đức Như Lai.
Ba là rộng sắm đồ cúng dường.
Bốn là sám hối các nghiệp chướng.
Năm là tùy hỷ các công đức.
Sáu là thỉnh đức Phật thuyết pháp.
Bảy là thỉnh đức Phật ở lại đời.
Tám là thường học đòi theo Phật.
Chín là hằng thuận lợi ích chúng sanh.
Mười là hồi hướng khắp tất cả.

Sau đó nhờ sự thưa hỏi của Thiện Tài Đồng Tử- một vị bồ tát sơ địa, ngài Phổ Hiền đã giảng giải thêm về 10 hạnh nguyện này.
Trong mỗi khóa lễ, chư tăng/ni đều đọc tụng mười hạnh nguyện. Đọc tụng để làm gì? Đọc như một nghi thức hành lễ, đọc xong rồi quên, rồi bỏ đó, rồi ngày mai lại đọc tiếp? Hay đọc để cho thấm vào máu, vào tim để tu theo? Ngày nay Đức Phật không còn nữa cho nên một số điều không còn thực hiện được, như:

- Lễ kính các đức Phật.
-Rộng sắm đồ cúng dường.
-Thỉnh Phật thuyết pháp.
-Thỉnh Phật trụ thế, khoan nhập Niết Bàn.

Vậy chúng ta phải hiểu như thế nào và tu như thế nào nếu muốn tu theo đại hạnh nguyện của ngài Phổ Hiền?

1) Lễ kính các đức Phật.
Ngày nay Phật không còn nữa cho nên chúng ta kính lễ ai? Chúng ta đảnh lễ tượng Phật. Chúng ta đảnh lễ các tháp miếu thờ Phật. Chúng ta đảnh lễ các di tích mà Phật đã sinh sống, đã đi qua, đã hành đạo hay khi Phật nhập Niết Bàn, đảnh lễ xá lợi Phật.
Chúng ta còn đảnh lễ tất cả các vị hiền-thánh đã tu theo Phật, các thiện tri thức đang hoằng dương chánh pháp.
Chúng ta còn đảnh lễ tất cả những ai có hạnh từ bi, có lòng khoan dung, có ý thiện lành, có tâm bố thí, có hạnh nhẫn nhục. Đảnh lễ những đức tính cao quý này chính là đảnh lễ chư Phật vậy.
Nhưng khi đảnh lễ, theo ngài Phổ Hiền, chúng ta phải nguyện thanh thịnh ba nghiệp Thân-Khẩu-Ý chứ không phải đảnh lễ khơi khơi cho có lệ.

2) Khen ngợi các đức Như Lai.
Theo kinh điển, trong tất cả các pháp hội, trước khi trình bày trước đại chúng, các hàng đại bồ tát, đại sĩ, thiện tri thức đều khen ngợi các đấng Như Lai. Như vậy, khởi đầu các buổi thuyết pháp, thay vì đi ngay vào đề tài, chúng ta nên nói lời tán Phật giống như Đức Phật còn tại thế.

3) Rộng sắm đồ cúng dường.
Ngày nay Phật không còn nữa chúng ta cúng dường ai? Chúng ta cúng dường chư tăng/ni để chư tăng/ni có phương tiện sinh sống và tu học. Tuy nhiên chúng ta phải nhớ rằng chư tăng/ni không phải là Phật mà chỉ là đệ tử của Phật còn đang tu học, cho nên chúng ta chỉ cúng dường cho những ai giới hạnh trang nghiêm. Tuyệt đối không cúng dường cho những ai hành tà đạo, xa lìa giới luật và sống đời phóng dật.
Tuy nhiên cúng dường chúng sinh là quan trọng nhất. Chúng ta có rất nhiều cách cúng dường chúng sinh như: Mở trường học, xây nhà thương, giúp đỡ học sinh nghèo, cưu mang trẻ mồ côi, giúp người cô đơn bạc phước, xây cầu, tặng nhà tình nghĩa, cơm chay miễn phí, an ủi người khi hoạn nạn…đều là những hành vi cao quý. Đức Phật dạy rằng hằng thuận vì lợi ích chúng sinh là cúng dường chư Phật.

4) Sám hối các nghiệp chướng.
Chỉ có bậc tri thức, kẻ thiện lương mới thấy mình lỗi lầm. Kẻ hung ác không bao giờ thấy mình sai trái. Sám hối để lương tâm thanh thản và nhắc nhở chúng ta sẽ không còn làm chuyện xấu nữa. Sám hối là một phương thuật để tu hành.
Chúng ta cần sám hối từ lúc chào đời, từ thuở ấu thơ đã làm cho cha mẹ buồn phiền.
Rồi khi cắp sách đến trường chúng ta gây bao ai oán cho thầy/cô.
Rồi khi vào đời chúng ta tạo bao đau khổ cho bạn bè và anh chị.
Chúng ta cần phải sám hối xem trong cuộc đời chúng ta có bao giờ nói lời hung dữ, nói lời lừa dối, nói lời đâm thọc, nói lời vu oan giá họa?
Chúng ta cũng cần phải xét xem chúng ta có hạ nhục ai một cách quá đáng không?
Là người có quyền thế chúng ta đã gây khổ đau nào cho xã hội?
Là nhân viên thi hành luật pháp chúng ta có bao che cho tội phạm, các sòng bài, các ổ mãi dâm các tổ chức buôn bán ma túy khiến gây đảo điên, bất công và băng hoại xã hội?
Là thương gia, nhà sản xuất chúng ta có lường đảo khách hàng, chế đồ dỏm, bơm hóa chất vào đồ ăn khiến bao người mắc bệnh nan y không thuốc chữa?
Chúng ta cần phải sám hối xem chúng ta có trốn thuế, qua mặt chính quyền, hối lộ để làm ung thối quốc gia?
Là quan tòa xét xử chúng ta có bất công khiến bao người bị hàm oan, kẻ có tội lại được tha, kẻ thật thà lại lãnh án?
Là nhà tu hành chúng ta phải xét xem chúng ta có lừa đảo tín đồ không?
Chúng ta còn phải sám hối với bao loài vật mà chúng ta đã giết hại. Chúng ta sát hại chúng không phải vì đói mà vì thú vui săn bắn, nhậu nhẹt khoái khẩu hay chỉ vì tính hung ác.
Chúng ta cũng cần phải sám hối vì đã tàn phá bao loài cây cỏ, núi rừng khiến gây cảnh lụt lội, bão tố, cuồng phong, đất đai sụp lở.
Chúng ta không những sám hối với người sống mà cả những người đã chết.
Chúng ta cần phải sám hối tới ngọn ngành. Sám hối ngày đêm cho đến khi không còn gì để sám hối nữa. Như thế mới gọi là sám hối nghiệp chướng.

5) Tùy hỷ công đức.
Chúng ta phải thấy rằng làm thiện nguyện giúp đời là niềm vui. Làm thiện nguyện là nuôi dưỡng tâm lành là nâng cao phẩm  giá. Một đất nước sẽ hùng mạnh nếu có nhiều người tham gia thiện nguyện. Một siêu cường hay đế quốc cũng sẽ xụp đổ nếu con người chỉ biết ích kỷ, sống cho mình.
Bảo nhau làm sạch đường phố là tùy hỷ công đức.
Bảo nhau dọn vệ sinh các bãi rác, biển hồ sông suối, cho công viên khang trang sạch sẽ là tùy hỷ công đức.
Bảo vệ môi trường là tùy hỷ công đức.
Bảo vệ loài tôm cá, bảo vệ rừng để cân bằng sinh thái là tùy hỷ công đức.
Tới chùa làm công quả, dọn dẹp vệ sinh, giữ gìn an ninh trật tự cho các buổi lễ lớn là tùy hỷ công đức.
Của ít lòng nhiều, không cứ là bao nhiêu đem cúng chùa là tùy hỷ công đức. Công đức không tùy thuộc khối lượng khổng lồ mà là sự tăng trưởng tâm lành ngay trong chính con người mình.

6) Thỉnh Phật thuyết pháp.
Ngày nay Phật không còn nữa cho nên chúng ta phải khuyến khích và kính trọng các đạo sư giảng pháp. Khi pháp Phật lan truyền thì đạo còn và Phật vẫn còn ở với chúng ta. Khi Phật pháp suy tàn, không còn ai nhắc nhở tới nữa thì đạo diệt và Phật cũng không còn.
Thế nhưng chúng ta phải biết phân biệt thế nào là tà sư thế nào là đạo sư. Có năm tiêu chuẩn để thẩm định điều người đang nói, đang giảng là chánh pháp. Giảng sư dù có nói gì đi nữa thì nó phải nằm trong Ngũ Pháp Ấn, đó là: Khổ, Vô Thường, Nhân-Quả, Tánh Không và Niết Bàn. Ví dụ, một người trổ hết tài hùng biện nhưng chỉ nói về phép mầu, Thiên Đàng, Địa Ngục, ban phúc, giáng họa, chỉ tập trung vào cầu nguyện van vái mà không có pháp tu chứng trên bản thân mình... không hề nói tới Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế thì chắc chắn đó là tu sĩ ngoại đạo, không phải đạo sư, không phải là đệ tử của Phật.

7) Thỉnh Phật trụ thế.
Bây giờ Đức Phật đã nhập niết bàn hơn 2000 năm, làm sao thỉnh Phật ở mãi với chúng ta? Thế nhưng muốn Phật vẫn còn ở mãi với chúng ta, có hai cách:
-Hoằng dương chánh pháp. Chúng ta phải làm thế nào để khắp nơi được biết về đạo Phật, hiểu về đạo Phật rồi tu theo Phật.
-Mỗi tăng/ni phải là hình ảnh sống động của Phật. Nếu tăng/ni hư đốn. Thuyết pháp thì nói toàn chuyện trên trời dưới biển mà tham-sân-si vẫn còn, đạo hạnh không có, vướng mắc vào những xấu xa của thế tục…thì đạo suy tàn và Phật cũng chẳng còn ai nhắc nhở tới nữa. Hiện nay có thể Đức Đạt Lai Lạt Ma là hình ảnh tiêu biểu của Phật Giáo, một đại đệ tử của Phật hoàn hảo về hai phương diện Từ Bi và Trí Tuệ. Khi nào thấy tăng/ni mà như thấy Phật thì đạo hưng thịnh và Phật vẫn còn ở với chúng ta. Khi nào thấy tăng/ni mà xa lánh thì đạo diệt.

8) Thường học đòi theo Phật.
Thường học đòi theo Phật là thể hiện những gì Phật dạy nơi chính bản thân mình chứ không phải tối ngày tụng niệm những gì Phật dạy. Đạo Phật không phải là đạo để thuyết giảng, không phải đạo của nghi thức thờ phượng, mà phải thể hiện ngay trên bản thân mình. Sự chứng đắc được hiển lộ qua lời ăn, tiếng nói, cách đi đứng nằm ngồi, cách cư xử, cách hành động lúc nào cũng an nhiên, tự tại, uy nghiêm nhưng từ bi, sống ở trên đời, làm việc đời việc đạo nhưng không vướng mắc chuyện đời. Như thế mới là học đòi theo Phật.

9) Hằng thuận lợi ích chúng sanh
Chúng sinh từ vô thủy đã sống trong tham-dục. Hàng bồ tát tu theo Phật phải nương theo tham-dục của chúng sinh để giáo hóa chúng sinh. Chúng sinh có thể chỉ đến chùa cầu tài, cầu lộc. Nhưng bồ tát nương theo đó mà giảng về lòng tham và thế nào là tu phước. Chúng sinh có thể đến chùa để xin dâng sao giải hạn nhưng bồ tát nương theo đó mà giảng về nghiệp báo và nhân quả. Chúng sinh có thể đến chùa vì khủng hoảng tinh thần, bồ tát nhân đó mà giảng về hạnh vô úy. Chúng sinh đến chùa xin làm lễ thành hôn (hằng thuận), dù biết rằng ái dục là cội nguồn của khổ đau và sinh tử tương tục nhưng bồ tát nhân đó giảng về đạo vợ chồng và hiếu đạo. Chúng sinh có thể đến chùa nói rằng, “Con bị ma nhập, quỷ ám”. Bồ tát có thể tụng cho nạn nhân một thời kinh rồi khuyên nạn nhân về nhà tập thể dục, ăn chay, tụng kinh sám hối, niệm Phật. Nếu có thể thực hành Thiền Quán cho tình thần trở nên sáng suốt dũng mãnh…hy vọng có thể qua khỏi. 
            Nói tóm lại, người tu hành theo Phật vừa lấy cứu cánh là giải thoát bản thân nhưng cũng lấy mục tiêu giúp đời. Do đó những gì lợi lạc, an vui cho chúng sinh thì bồ tát nguyện làm. Như thế mới gọi là hằng thuận lợi ích chúng sinh.

10) Hồi hướng khắp tất cả.
Hồi hướng về khắp tất cả là chuyển sự thành công của mình với lòng biết ơn tới tất cả mọi người.
-Lãnh đạo thành công tuyệt đỉnh nhưng phải hiểu đó là sự hy sinh, nỗ lực của cả quốc gia dân tộc mà mình chỉ là người dẫn dắt.
-Vị nguyên soái có chiến thắng lẫy lừng nhưng phải hiểu thành công đó có được là do sự hy sinh xương máu của bao chiến sĩ và sự đóng góp của toàn dân ở hậu phương.
-Một tỷ phú thành công trên thương trường là do công sức của bao nhân viên và tiền bạc của người tiêu thụ.
-Một đứa con thành công trên đời là do công ơn giáo dục của cha mẹ và thầy cô.
-Một nhà văn nổi tiếng là nhờ độc giả. Truyện Kiều mai đây không được dạy trong văn học sử, không còn ai đọc nó nữa thì Truyện Kiều cũng đi vào quên lãng.
            Hồi hướng về khắp tất cả là xả bỏ cái Ngã, là khiêm tốn, là chia xẻ niềm vui với tất cả mọi người. Nói cho cùng ra,  trên cõi đời vô thường này, chẳng có gì là của mình. Hồi hướng về khắp tất cả là một hạnh hy hữu và vô cùng cao thượng của Phật Giáo.

Tạm Kết Luận:
Đối với kẻ ngoại đạo hay người không hiểu, thì đạo Phật chỉ là một đạo rất tầm thường, yếm thế. Kinh qua lịch sử, đạo Phật không có một đế chế, không có đạo quân chinh phạt, không có chiến thắng… để khiến nhân loại phải khiếp sợ. Mà sự sợ hãi (khủng bố) lại là một nhân tố rất quan trọng để tin theo một tôn giáo, nhất là tôn giáo thờ thần. Trong khi đó, đệ tử của Phật thì tương chao dưa muối, cho gì ăn nấy, không rượu thịt, chân đi đất, quần áo thì chỉ là thứ y phục của dân nghèo, phẩm phục không sa hoa, lộng lẫy.

Thế nhưng khi nghiên cứu và tìm hiểu về nó thì đạo Phật là một đạo vĩ đại. Đạo Phật là đạo của Trí Tuệ và Từ Bi. Nó hoàn toàn nhân bản, thực tiễn, không lấy phép mầu của thần linh để làm nền tảng chiêu dụ tín đồ. Tính nhân ái của đạo Phật và hàng đệ tử của Phật bao trùm cả thế giới, không chỉ xót thương loài người và còn cả núi rừng, cây cỏ và thú vật. Đó là một đạo hy hữu của thế gian này.

Theo như hạnh nguyện của ngài Phổ Hiền, người tu hành không thể thành Phật thành bồ tát, không thể chứng quả nếu không phát nguyện đời đời, kiếp kiếp làm lợi lạc cho chúng sinh, coi chúng sinh như cha mẹ mình. Vậy thì hạnh nguyện của ngài Phổ Hiền rất phù hợp với thời đại ngày hôm nay. Do đó, ngoài hàng ngũ xuất gia, hàng cư sĩ và Phật tử tại gia vẫn có thể tu theo hạnh nguyện Phổ Hiền.

Đọc tụng mỗi ngày và tùy duyên, tùy hoàn cảnh mà làm bất cứ việc gì, dù nhỏ bé mà lợi lạc cho đời là tu theo ngài Phổ Hiền. Thế giới này sẽ trở thành Cực Lạc nếu mỗi ngày, mỗi lúc, mỗi nơi có thêm một ngài Phổ Hiền Bồ Tát.
Xin kính lạy ngài Phổ Hiền và tất cả các ngài Phổ Hiền của ngày mai.

Thiện Quả Đào Văn Bình
(California ngày 28/3/2019)
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/09/2013(Xem: 6663)
Vầng trăng ai xẻ làm tư. Nửa in Bút Nữ, nửa soi gầm giường. Ai bảo Hoa Lan không biết làm thơ ? Không, cô nàng ngoài tài viết văn quyến rũ độc giả đưa vào mê hồn trận với những mối tình A Còng và Nghịch Duyên, cũng biết xuất khẩu thành thơ đấy. Nhưng thơ của nàng thì ôi thôi chẳng ai chịu nổi cả vì chỉ toàn đi chôm thơ của người khác rồi cải biên, tân trang lại cho đúng vần đúng điệu và cuối cùng nhận là thơ của mình.
17/09/2013(Xem: 7868)
Cuối cùng ngày mong đợi cũng đến: Hành hương Tích Lan 02.07.2011 - 14.07.2011. Từ Thụy Sĩ xa xôi, một mình lẻ loi như cánh chim lạc đàn, tôi tìm về tổ ấm nhập đàn cùng thầy, bạn, những người quen và những người chưa quen ở Đức. Một chuyến đi xa, hành hương đến một nước xa lạ chưa hề nghĩ có ngày đặt chân tới, tôi háo hức như đứa trẻ sắp được mặc áo mới, hay cô dâu sắp về nhà chồng. Chuyến bay cất cánh từ phi trường Frankfurt Đức quốc lúc 22.40 thuận lợi cho tôi đủ nhân duyên để tham dự chuyến hành hương này.
16/09/2013(Xem: 6224)
Vấn đề tôi nói hôm nay là một chữ XẢ. Quí vị biết ngược với xả là gì không? Là cố chấp, nắm chặt. Cố là chặt, chấp là nắm; cố chấp là nắm chặt. Khác với nắm chặt là buông bỏ.
16/09/2013(Xem: 6581)
Hồ Bodensee tiếp giáp ba nước Áo, Đức, Thụy Sĩ vẫn còn đó, nhà Thi Thi ( Thi Thi Hồng Ngọc ) vẫn còn kia, trái đất tròn vẫn luôn tròn không méo, cho nên, chúng tôi hẹn gặp lại nhau không khó.Chỉ khó chăng tại lòng người “đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông „.Vâng, đúng vậy, tôi đã lừng khừng nửa muốn nửa không, ngán ngẫm khi nghĩ phải lủi thủi kéo valy một mình dù đoạn đường không dài, chỉ hai tiếng xe lửa từ nhà tôi qua Thi Thi rồi đến tu viện Viên Đức.
13/09/2013(Xem: 11977)
Mỉm cười không mệt, giận hờn mới mệt Yêu thương không mệt, ghen ghét mới mệt
13/09/2013(Xem: 9019)
Có lẽ Chủ tịch Jim Young Kim thấy nhân viên của World Bank (WB) đang bị sức ép thay đổi đè nặng lên vai nên đã đích thân mời Thiền sư Thích Nhất Hạnh tới thăm và nói chuyện.
07/09/2013(Xem: 5502)
Vào những năm 1974-1996, khi ấy tôi còn ở một ngôi chùa tọa lạc ngoại vi Thành phố. Trước đó, ngôi chùa nầy có một lần trùng tu lại, vì nguyên thủy của nó chỉ xây dựng bằng phương tiện vật liệu nhẹ như; mái, vách tôn, cột, kèo bằng gỗ thao lao, nền chùa lót bằng gạch tàu trông vẽ đơn sơ, mặt sân đất thoáng rộng, dân cư chung quanh còn thưa thớt lắm, nên không gian ở đây còn yên tĩnh hơn bây giờ nhiều.
07/09/2013(Xem: 6384)
Như cuộc sống hiện giờ có ba việc ăn, uống, thở, trong đó chúng ta lo việc nào nhiều nhất? Thường người ta lo ăn nhiều nhất. Tối ngày chạy lo ăn, nhưng thật ra nếu nhịn ăn mấy ngày có chết không? Không chết. Kế đó là uống, nhịn uống hai ba ngày mới chết. Ðến thở, nhịn bao lâu chết? Trong tích tắc, thở ra mà không hít vô là chết. Vậy mà người ta lại quan trọng ăn với uống, còn thở ra sao thì không biết. Rõ ràng việc tối quan trọng lại lơ là, còn việc không quan trọng thì dồn hết tâm lực vào đó. Như vậy mới thấy cái lầm lẫn của chúng ta thật đáng thương.
06/09/2013(Xem: 6430)
Lý số, đông y là nghề của bố chồng tôi. Không rõ nhờ cụ thực tài hay tại hành nghề miễn phí, không nhận thù lao của khách nên khách của cụ khá đông. Một ngày, năm đó tôi vừa 23 tuổi, có một vị khách đặc biệt đến nhà giữa lúc bố tôi đi vắng. Vị khách tướng tá khác phàm, râu tóc bạc phơ, cốt cách như một tiên ông. Cụ mặc chiếc áo dài the, đầu đội khăn đóng như bố chồng tôi vậy, tay cụ cầm gậy trúc và tự xưng là bạn của bố tôi mặc dù xưa nay tôi chưa hề gặp cụ bao giờ. Tôi mời cụ vào nhà.
04/09/2013(Xem: 7672)
Con người ta có nhiều cái sợ, như sợ già, sợ bệnh, sợ chết, sợ vợ hay chồng bỏ, sợ thất nghiệp, sợ nghèo, sợ đói, sợ nhiều thứ, v.v… Trong những cái sợ này có cả sợ ma. Không phải chỉ có con nít mới sợ ma mà nhiều người lớn cũng sợ ma. Muốn hết sợ ma thì cần phải suy tư về thực chất của sợ và ma.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567