Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cho Một Hướng Đi

05/03/201915:03(Xem: 5604)
Cho Một Hướng Đi

matphuonghuong_photo
CHO MỘT HƯỚNG ĐI

Cuộc sống luôn chao đảo, cuồng phong tạp nhạp cuốn trôi xã hội, tuổi trẻ không còn phương hướng, người lớn mệt mỏi chống chọi với bao lo âu. Kinh tế, văn hóa, giáo dục, tôn giáo, chính trị, thị trường kinh doanh… dàn trải trước mặt như mọi thứ lềnh bềnh trên mặt sóng thời gian.

Phải chăng chúng ta đang rơi vào tận cùng hổn loạn tâm tưởng. Bấu víu tạm bợ, quơ quàu, lừa đảo, lường gạt, đè ép lẫn nhau để ngoi lên; bất kể đạo lý luân thường, có người làm bất cứ điều gì theo bản năng mà không cần đắn đo suy nghĩ. Tạo ra cơn xáo trộn, tác động đến môi trường chung quanh cùng nhịp điệu xáo trộn như mọi vật tung bay theo cơn lốc. Không còn căn bản sống, không cần biết tương lai, không cần biết ai thiệt hại. Vì một chút dục vọng hay lợi nhuận nhỏ nhoi có thể giết người. Người còn giết dễ dàng huống chi thú vật. Cuộc sống đang là màn tàn sát lẫn nhau. Sinh mạng ngày nay như cọng cỏ rạp theo cơn lốc, có thể bẹp nhúm, có thể trốc gốc cô đơn…

Mở mắt ra nháo nhào vào giòng sống, nhìn nhau bằng ánh mắt ngờ vực thiếu niềm tin; nói với nhau bằng lời nặng nề cau có, đưa cho nhau những độc tố chết người; bỏ vào túi cọc tiền nhơ bẩn không cần xem xét, người đưa tiền biết rằng hôm nay vợ con sẽ thiếu cái ăn, vì cần một chân bảo vệ. Chữ nghĩa tương lai nhẹ hơn cọc vé số vô hồn; trẻ con hồn nhiên vui đùa trên hè phố với tấm thân tàn tạ, quần áo tả tơi. Cụ già co ro bên vĩa hè với nhúm rau khô héo. Cụ ông bươi thùng rác tìm cái gì còn sót lại sống qua ngày. Con chó ốm đói đưa mắt chờ kẻ vứt đồ thừa… Đêm về, mệt mỏi, cô đơn, thèm khát, hận thù… chập chờn dày vò tâm can chìm vào giấc ngủ.

Thế nhưng, vẫn luôn nghe nói về đạo đức, về những lý tưởng phát triển ngày mai. Người người đóng vai bệ vệ qua lớp áo sang trọng che dấu manh tâm thủ lợi bất chính. Một vài cơ sở tôn giáo chiêu mộ niềm tin của những người không còn nơi bám víu. Sống trên sự sống là quy luật ngàn đời như con thuyền bập bềnh trên mặt nước. Thuyền nổi nhờ nước, sự sống này nhờ vào sự sống khác thấp bé hơn.

Tấm lòng nhân đức của những con người thánh thiện, biết chia sớt nhau nỗi khổ niềm đau, như cánh sen lẻ loi trên mặt sình lầy. Có những cuộc chia sớt thật lòng, cũng không thiếu lấy sự chia sớt làm màn the che mắt thánh. Xã hội là thế, và tận cùng xuống cấp của một xã hội cũng chỉ có thế.

Tôn giáo ư? Vâng, tôn giáo luôn nêu khẩu hiệu tình thương và bác ái. Lời khấn nguyện khi thụ phong Linh mục là đức “nghèo khó”, nhưng về quản xứ thì trở thành đức “khó mà nghèo”. Một vài tu sĩ với tâm nguyện xuất gia giải thoát, khi mặc chiếc áo tu vào thì giải thoát trở thành ràng buộc bởi chức sắc  quyền uy. Phật bỏ cao sang để chọn đời sống vô sản, thời nay từ vô sản vào chùa trở thành tư bản cao sang. Sự cách biệt giữa tu sĩ các tôn giáo với dân thường là khoảng cách khó ngăn lấp, ngoại trừ những bậc chân tu ly tham ly dục còn là ánh sáng leo lét soi lối cho những kẻ muốn hướng thượng đường về.

Những tạp nham trong cuộc sống là hiện thân rác rưởi của tâm hồn; tìm đâu nơi an ủi giữa bảo tố cộng nghiệp nhân gian? Dừng lại, vâng, các thiền sư đều bảo dừng lại và buông xuống tất cả những vọng tưởng rối loạn mong cầu. Người mong cầu dừng lại và buông xuống thật khó vì giai duyên ràng buộc, nhưng những người muốn dẫn dắt linh hồn, những người ngỡ mình là giáo chủ cũng chưa đủ can đảm bưông xuống những tham dục, dừng lại những cám dỗ của vị giác nói chi đến những đam mê trần tục, chức quyền.

Tình thương? Vâng, tình thương là cảm xúc của đời thường có đối tượng, đó là tình thương có điều kiện, bản ngã cá nhân đối với cá nhân; tình thương như thế khó cảm hóa lòng người. Mỗi cá nhân có đủ những yếu tố phàm tục, tất sẽ va chạm. Thương không có tình, không có cảm tính, thương vô điều kiện, còn có đối tượng để thương thì thương như làn ánh sáng mong manh trên ngôn ngữ. Còn phân biệt kẻ nghèo người giàu, còn tự ái nhận sự giúp đỡ từ ai đó, còn ý thức mình giúp đỡ kẻ hèn kém, còn đối đãi phân biệt, cái thương đó là sự thương hại của phàm tình. Thương như thế là một cảm xúc tâm lý.

Con người chưa có một pháp hành đủ công năng nâng tâm thức lên một tầng bậc vô vi, thì tình thương chỉ là sự ý thức có cố gắng. Thương là một ánh sáng tự nhiên không cảm xúc, không điều kiện, không đối tượng, đó là ánh sáng trí tuệ hiện thân từ bi, bác ái khi hành giả đạt được trình độ siêu thức một cách tự nhiên. Tình thương hay thương yêu có định hướng, có ý thức là vòng lẫn quẩn tự đánh lừa theo hội chứng giáo chủ.

Dù cho tình thương có đối tượng vẫn tốt hơn vô cảm, nhưng tình thương có điều kiện  thà rằng vô cảm hơn tiêu thụ một tình thương như thế. Tình thương chân thật đủ cảm hóa mọi tệ nạn, và chính mình, tự hóa giải những ách tắc trong tâm. Khởi sự tình thương được dẫn dắt bởi ý thức có thể là nên tảng bước đầu tiến đến nguồn sáng yêu thương của năng lượng vũ trụ; Đó là tình thương siêu thức. Các tôn giáo chân chánh đều nói đến từ bi, bác ái của chân lý, nhưng con người kéo thấp bác ái từ bi xuống tầng cấp đời thường, chính vì thế bác ái từ bi đã bị lòng tham dục lợi dụng dưới nhiều hình thức; Từ đó chống đối lẫn nhau, vì nghĩ rằng họ sai, mình đúng.

Con người nói chung, tuổi trẻ nói riêng hãy chọn cho mình một hướng đi bằng đôi chân tại chỗ. Không mong cầu hướng vọng; hạnh phúc bình an ngay tại chỗ bạn đang sống; những xáo trộn phức tạp bên ngoài chỉ là phản ánh tâm hiếu động chính tự thân. Không ai cho ta bình an, hạnh phúc không đến từ bên ngoài. Biết như thế sẽ không trách móc xã hội, không hờn giận vu vơ, không chạy theo mong cầu để cuối đời còn lại nhúm tóc hai màu và vết chân chim điểm tô khóe mắt. Đèn  dầu không bị gió chao, ánh sáng sẽ tỏa rạng. Tâm an định không bị tác động bởi ngoại cảnh, tinh thương và trí tuệ sẽ sáng ngời. Tình thương và trí tuệ bấy giờ là một điểm linh quang của tuệ giác, soi sáng cho mình và làm điểm tựa cho mọi người chung quanh.

Đó là lý do một Thiền sư, một minh sư, một thánh nhân đem lại sự an lạc cho người đời mỗi khi thân cận gần gũi với các ngài. Các đấng giáo chủ không quyền lực, không quyền lợi mà vẫn được quần chúng tôn sùng, quy ngưỡng, phải chăng chỉ có lòng từ bi chân thật đã cảm hóa?

 Ngày nay giữa bộn bề rối loạn đã đánh mất phương hướng cho cuộc sống an lành, hướng đi không đâu xa, chính ngay chỗ ta đang sống.

 

MINH MẪN

04/3/2019

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/10/2014(Xem: 6546)
Đối với người đời, không có phước đức nào lớn cho bằng vợ đẹp, con khôn, của cải đầy kho, quyền thế, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp… Thế nhưng bạn ơi, -Biết bao nhiêu ông thủ tướng, tổng bộ trưởng bị tù đày vì tham nhũng, gian trá, lạm quyền…thậm chí buôn lậu, dâm ô. Biết bao nhiêu ông tổng thống bị ám sát, lật đổ cũng chỉ vì tranh giành quyền lực. -Ông bố đốt tờ giấy bạc mà người nghèo có thể mua bao gạo để tìm một món đồ cho cô đào cải lương đánh rơi trong phòng trà…vài chục năm sau ông con lại sống như kẻ ăn mày. -Ông bố cặm cụi làm việc suốt đời tao dựng gia tài khổng lồ. Ông con trở thành “công tử” ăn chơi phung phí, bao gái, đua đòi, ném tiền qua của sổ…chẳng mấy chốc phá nát sự nghiệp của cha ông.
20/10/2014(Xem: 21356)
Đây là một trong những câu hỏi mà phóng viên tờ Mandala đã phỏng vấn bác sĩ Alan Molloy, một thành viên lâu năm của Viện Phật học Tara ở tiểu bang Melbourne, Úc, một người đã chứng kiến sự phát triển của đạo Phật tại quốc gia này từ cuối thập niên bảy mươi đến nay.
20/10/2014(Xem: 7340)
Là tín đồ Phật giáo từ năm mười bảy tuổi, đạo hữu luật sư Christmas Humphreys (1901-1983) không thuộc bất cứ một giáo phái nào của Phật giáo. Ông tin vào Phật giáo thế giới, và ông nghĩ rằng: “chỉ trong sự phối hợp của tất cả các tông phái người ta mới có thể thấy trọn vẹn sự vĩ đại của tư tưởng Phật giáo” (only in a combination of all schools can the full grandeur of Buddhist thought be found). Để làm cho quan điểm của mình được Phật tử trên thế giới chấp nhận, ông đã trình bày Mười hai nguyên tắc của Phật giáo (Twelve Principles of Buddhism) nổi tiếng của mình vào năm 1945, được dịch ra 14 thứ tiếng và được nhiều tông phái Phật giáo trên thế giới chấp nhận. Mười hai nguyên tắc ấy có điều giống với Mười Bốn Nguyên Tắc của Đại Tá Olcott giới thiệu trong tác phẩm Phật pháp vấn đáp (Buddhist Catechism) của ông, được xuất bản vào cuối thế kỷ thứ 19.
17/10/2014(Xem: 6931)
Bài viết “Phật trên hè phố Oakland” của nhà báo Trần Khải, tiếp tục được tải truyền rộng rãi trên các website. Bài viết ghi lại đại cương sự kiện phóng viên Chip Johnson kể lại trên báo SFGate.com về một pho tượng Phật đã đem lại sự bình an, sạch sẽ cho một khu phố nhiều tội ác và rác rưởi trước đây. Chi tiết đặc biệt đã thu hút người đọc, là pho tượng Phật Thích Ca bằng đá, chỉ cao khoảng 2 feet, được đặt ở góc đường 11 và đường 19, trong khu Eastlake, thành phố Oakland , là do một người vô thần, tình cờ nhìn thấy tại một tiệm bán vật liệu xây cất.
16/10/2014(Xem: 13806)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đại mà con người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh. Tuy nhiên theo lời Phật dạy, Phật từ tâm, tâm sinh Phật, để đưa đến giải thoát giác ngộ. Do đó nếu đã là Phật tử rồi thì nhất định phải tin lời Phật dạy, hơn nữa Kinh Hoa Nghiêm còn nói: “niềm tin là mẹ của công đức”.
14/10/2014(Xem: 8866)
Bạn chưa từng ghé thăm mà không gọi trước. Vậy mà lần này, mở cửa, chưa nhìn thấy người đã thấy hoa và trái. Mấy bó cúc đại đóa vàng tươi che kín mặt, chưa đủ, tay kia còn chĩu nặng một giỏ, vừa hồng dòn, vừa soài xanh, mận chín. Tôi toan đỡ một thứ, bạn đã bước nhanh qua cửa, đi thẳng vào bếp, đặt quà xuống, và líu lo: - Hên ghê, mình vừa đến tiệm là xe chở hoa và trái cây phân phối các chợ cũng vừa tới. Xem này, thiệt là tươi. Mình mua ngay. Khách hàng đầu tiên đấy!
14/10/2014(Xem: 8163)
Con đường ấy, khởi bước, ngỡ không mấy khó và chắc cũng chẳng có chi dài, vì nương theo sự chỉ bảo của các vị Đạo Sư, các bậc thiện tri thức giảng giải lời Phật dạy, thì sự giải thoát, giác ngộ có bao xa! Tùy căn cơ người nghe, lời giảng dạy chỉ gom về một mối, là muôn kinh, vạn kệ, hằng hà pháp môn cũng chỉ để giúp ta nhận ra, rằng mỗi chúng sanh đều có Phật Tánh sáng chói như nhau, nhưng nếu không thấy, chỉ bởi vô minh che lấp mà thôi. Nhận ra, và xóa sạch được bụi vô minh thì chúng sanh “sẽ thành Phật” đó, lập tức là “Phật đã thành”.
14/10/2014(Xem: 8461)
Mỗi tuần, tôi có một ngày để làm hai việc tuyệt vời. Đó là, thứ nhất: làm thinh, thứ hai: không làm gì cả! Hôm nay đang là phút giây tuyệt vời đó. Sau những ngày lạnh bất thường, nắng sáng nay rất đẹp, vàng óng và ấm áp. Cây cỏ hoa lá rộ lên niềm vui. Mọi cánh cửa mở rộng để nắng ghé vào, mang hương thơm của đất trời chuyển hóa. Không mùi hương nhân tạo nào so sánh được với hương gió núi mây ngàn. Ít nhất, chủ quan tôi như thế.
14/10/2014(Xem: 7290)
Từ Tào-Khê tịnh thất lên ngôi chùa hoang vắng nằm sâu trong rừng thông miền đông bắc Hoa Kỳ, hành trang tôi đã nhẹ. Rồi từ ngôi chùa hoang vắng đó về lại tịnh thất, hành trang lại càng nhẹ tênh! Cái giầu có nhất trong gia tài tôi, chỉ là kinh và sách, nhưng sau chuyến “lên rừng độc cư”, nay từ ba kệ lớn, chỉ còn một kệ nhỏ, khi thực hiện lời phát nguyện “Tặng hết những gì có, tới những ai ngỏ lời xin” (trừ những cuốn có chữ ký và thủ bút của Thầy Tuệ Sỹ)
13/10/2014(Xem: 8380)
Tôi lặng người nhìn bức hình Tuệ Sỹ, vẫn gương mặt xương xẩu, vẫn đôi má lỏm sâu, vẫn cặp mắt rực sáng, vẫn gầy còm, chỉ là tóc đã bạc màu, y vàng nghiêm trang, kính cẩn cầm ba nén hương to, quì trước bàn thờ với bức ảnh hiền từ với nụ cười an lạc của Ôn. Ai nghe tin Ôn thị tịch cũng xúc động, cũng phải bái lễ, thọ tang. Thấy Thầy Như Minh từ Los cũng bay về, gương mặt buồn rầu như đang khóc tang. Chú cũng thuộc hàng hậu học, cũng tôn kính Ôn là bậc trưởng thượng, có gì lạ đâu. Chẳng có gì đặc biệt. Nhưng nếu có ai để ý, từ sau 1973, Chú không hề đặt chân lần nào nữa đến Vạn Hạnh, bấy giờ đã dọn về đường Trương Minh Giảng, chỉ trụ ở Già Lam, trên lầu, chia phòng với chú Dũng,[1] thì mới có thể hiểu được ý nghĩa của tấm hình này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]