Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11 - Khác biệt giữa từ ái và luyến ái

09/02/201920:14(Xem: 6201)
11 - Khác biệt giữa từ ái và luyến ái

KHÁC BIỆT GIỮA TỪ ÁI VÀ LUYẾN ÁI

 

 

 

 

Giống như nước muối, những thứ vui thú

gia tăng luyến ái[1] bất chấp chúng được sử dụng nhiều như thế nào

Sự thực tập vị tha bằng việc nhìn chúng

giống như cầu vồng mùa hè,

hiện hữu xinh đẹp nhưng không thật,

Do vậy , tránh luyến ái và tham dục.

 

- Bồ tát TOKMAY SANGPO

 

 

 

  Để phát sinh lòng từ ái chân thật, chúng ta cần biết nó khác biệt với luyến ái như thế nào.  Lòng yêu thương và trắc ẩn thông thường quyện kết với luyến ái, bởi vì động cơ của chúng là vị kỷ: chúng ta quan tâm đến những người nào đấy bởi vì họ tạm thời giúp đở chúng ta và người thân của chúng ta.  Như Long Thọ nói trong Tràng Hoa Quý Báu rằng:

 

Mặc dù liên hệ với luyến ái đến những người khác

là một khuynh hướng để giúp đở hay không giúp đở

Nhưng qua bị tiêm nhiễm bởi tham dục

hay một khuynh hướng để làm tổn hại.

 

Bởi vì lòng yêu thương và trắc ẩn như vậy ở dưới thế lực của luyến ái, chúng không thể mở rộng đến những kẻ thù, chỉ  người thân mà thôi - người phối ngẫu, con cháu, cha mẹ, v.v...  Trái lại từ ái và bi mẫn phát triển với nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng và những quyền lợi của người khác, chúng sẽ  vươn ra thậm chí đến những người làm tổn hại chúng ta.  Từ lúc thơ ấu, tôi đã từng có một khuynh hướng từ ái và bi mẫn nhưng nó là thiên kiến.  Khi hai con chó đang cắn nhau, tôi thường có một cảm giác mạnh mẽ đối với con bị thua.  Ngay cả khi hai con bọ đấu nhau, tôi đã có một mối quan tâm mạnh mẽ đối cho con nhỏ hơn, nhưng tôi sẽ sân hận với con thắng trận.  Điều ấy cho thấy rằng lòng từ ái và bi mẫn của tôi bị thành kiến.

 

Trong việc quay lưng với luyến ái, chúng ta không được quên lãng những nhu cầu cần thiết, chẳng hạn như thức ăn, chỗ ở, và ngủ nghĩ.  Đúng hơn, chúng ta nên tách rời chính mình khỏi những sự xao lãng nông cạn gợi ra từ những tiếng reo như "Thứ này thật tuyệt vời" "Tôi phải có thứ này!" "Ô, phải chi chỉ mình tôi có thứ này!"  Khi chúng ta buông thả cuộc sống mình với những tư tưởng như vậy, sự lòe lẹt và tiền bạc trở nên hấp dẫn hơn sự phát triển tâm linh: những cảm xúc đau khổ gia tăng, đưa đến rắc rối, quấy rầy chính mình và những ai chung quanh chúng ta, trong khi chúng ta suy nghĩ để tìm ra những phương pháp để thỏa mãn những cảm xúc này, lại chỉ tạo thêm rắc rối.  Bị lèo lái tơi bời bởi luyến ái, chúng ta sẽ không tìm thấy được sự thoải mái. 

 

Cách tốt nhất để vượt thắng sự luyến ái chướng ngại ẩn tàng là nhận ra rằng chính bản chất của đời sống là những gì được tập họp lại với nhau cuối cùng sẽ tan rả - cha mẹ, con cái, anh chị em, và bạn hữu.  Bất chấp người thân yêu thương nhau như thế nào, cuối cùng họ phải chia lìa.  Sai lầm là thấy những hoàn cảnh như những niềm vui cố hữu.  Luyến ái được xây dựng trên khái niệm sai lầm này và luôn luôn sẽ tạo thêm đau  khổ.

 

Vận may không phải thường trực; hệ quả là thật là nguy hiểm  để quá luyến ái với những thứ đang diễn ra một cách tốt đẹp.  Một quan điểm thường trụ  là nguy hại.  Khi chúng ta thấy hiện tại trở thành  mối quan tâm chính của chúng ta, tương lai không bận tâm, chính tư tưởng ấy là điều xói mòn động cơ của chúng ta trong việc dấn thân trong những sự thực tập bi mẫn cho sự giác ngộ tương lai của những người khác.  Một quan điểm về vô thường sẽ hổ trợ.  Bằng việc thấy rằng bản chất thật sự của mọi thứ là tàn tạ, chúng ta sẽ không bị sốc bởi sự thay đổi khi chúng xảy ra, không ngay cả sự chết

 

 

NHỮNG CẢM XÚC QUẤY RẦY PHÁT SINH NHƯ THẾ NÀO

 

Tham dục và thù hận phát sinh trong nhận thức của chính chúng ta như rất chắc chắn.  Một khi có một sự cụ thể rất chắc chắn, tồn tại của " tôi", sẽ có một sự phân biệt với người khác - một khi có " tôi", cũng có " người".   Sự phân biệt được tháp tùng bởi sự luyến ái đến cái chính tôi cụ thể và sự sân giận đối với phía kia.  Như hành giả - bác học Ấn Độ vào thứ kỷ thứ bảy là Nguyệt Xứng đã nói:

 

Bất lực như chiếc thùng đi lên và đi xuống trong một cái giếng

Qua sự phóng đại bẩm sinh  cá thể, cái "tôi".

Và sau đó là sự phát sinh luyến ái đối với mọi thứ, "Đây là của tôi."

 

 Những người đầu tiên nhận thức về sự tồn tại cái "tôi" cụ thể cũng nhận thức những sự tồn tại một cách cụ thể của mọi thứ có thể sở hữu được.  Qua năng lực của tiến trình này - sự phân biệt  tự thân và người khác và sự luyến ái đến các đối tượng - chúng ta lang thang qua những tình trạng tốt và xấu của cõi luân hồi, giống như cái thùng du hành một cách bất lực lên và xuống trong một cái giếng.

 

Thật quan trọng để nhận ra trong kinh nghiệm của chính mình rằng con người và sự vật xuất hiện giống như chúng tồn tại trong và tự chính chúng, nhưng không phải thế.  Nếu con người hay đối tượng xuất hiện vui vẻ, hai dòng suối năng lực của hấp dẫn được sản sinh - luyến ái đến chính mình và luyến ái đến con người hay đối tượng làm vui lòng.  Sự luyến ái đến cảm giác vui lòng tự nó lèo lái chúng ta vào trong những hành vi đau khổ và do thế đi vào trong cõi sinh tử.  Cho đến khi mà chúng ta vẫn phủ nhận bản chất thật sự của con người và sự vật, chúng ta sẽ tin rằng cả hai tồn tại một cách cố hữu.    Sẽ không lâu trước khi tham dục và thù hận đi vào khung cảnh.

 

 

BẢN CHẤT CỦA LUYẾN ÁI

 

Luyến ái làm gia tăng tham muốn, mà không phát sinh bất cứ sự thỏa mãn nào.  Có hai loại tham muốn,  chính đáng và không chính đáng.  Thứ nhất là phiền não tìm thấy trong si mê, nhưng thứ hai thì không.  Để sống, chúng ta cần những tài nguyên; do thế, tham muốn vì những thứ vật chất  cần dùng là thích đáng.  Những cảm giác chẳng hạn, "Thứ này tốt; tôi muốn thứ này.  Điều này là hữu dụng," không phải là phiền não.  Cũng có những thứ đáng ước ao để đạt đến như lòng vị tha, tuệ trí, và giải thoát.  Loại tham muốn này là thích hợp; thực tế, tất cả mọi sự phát triển của con  loài người đều đến từ tham muốn, và những nguyện vọng này không phải là phiền não. 

 

Thí dụ, khi chúng ta đã phát triển một mối quan hệ với tất cả chúng sinh, và khao khát rằng tất cả nên có hạnh phúc, một sự khao khát như vậy là đáng giá bởi vì nó không có định kiến.  Nó bao gồm tất cả chúng sinh.  Thường thì sự yêu thương của chúng ta hiện tại bị giới hạn với gia đình và thân hữu, nó bị tác động một cách sâu đậm bởi luyến ái si mê.  Nó là thành kiến.

 

Tham muốn chướng ngại ẩn tàng là luyến ái không thích đáng đến sự vật.  Điều này không tránh khỏi đưa đến không thỏa mãn.  Tự hỏi mình chúng ta có thật sự cần những thứ này nhất hay không, và câu trả lời là không.   Loại tham muốn này là không có giới hạn, tự nó không có cách nào toại ý.  Một cách cơ bản nó đưa đến khổ đau.  Chúng ta phải đặt sự dừng lại trong loại tham muốn này.

 

Trong những tầng thực tập trước, thật khó để phân biệt giữa những tham muốn hữu ích và những tham muốn phiền não.  Một hành giả có thể cảm thấy từ ái và bi mẫn nhưng vẫn nắm lấy ý tưởng si mê mà chính người ấy và đối tượng của từ ái và bi mẫn laf được thiết lập một cách cố hữu.  Vào lúc khởi đầu của việc thực hành tâm linh ngay cả si mê vẫn có thể phục vụ như môt sự hổ trợ cho giác ngộ.  Khi chúng ta trau dồi từ ái và bi mẫn lần đầu tiên mặc dù si mê và luyến ái liên hệ, nhưng thật là sai lầm  nếu không thực tập nữa; điều lựa chọn duy nhất là tiếp tục.  Để vượt thắng luyến ái, chúng ta không thể chỉ chặn đứng tâm mình khởi đến đối tượng.  Thay vì thế, chúng ta phải vượt thắng qua sự thực tập về sự nhận thức đối kháng với si mê.

 

Tuy nhiên, khi chúng ta có luyến ái đến những sự kiện vật chất, điều tốt nhất là ngừng dứt khỏi những chính những hành vi thúc đẩy thêm luyến ái.  Sự thỏa mãn là hữu ích khi tiếp xúc với những thứ vật chất, nhưng không liên hệ với sự thực tập tâm linh.  Những đối tượng mà chúng ta trở nên luyến ái là điều gì đấy bị loại ra, trái lại tiến trình tâm linh là điều gì đấy được tiếp nhận - có thể được phát triển một cách giới hạn, ngay cả trong tuổi già.

 

 Mặc dù trong lúc khởi đầu thật khó khăn để phân biệt giữa những tham muốn phiền não và những tham muốn không phiền não, nhưng qua sự khảo sát và phân tích liên tục chúng ta có thể dần dần xác định si mê và những cảm xúc phiền não, làm cho sự thực tập của chúng ta ngày cành thuần khiết hơn.  Luyến ái là một phía, tập trung một cách hạn hẹp trên chính mình và chỉ ngắn hạn, càng trở nến luyến ái, càng thành kiến và hạn hòi.   Ngay cả những thứ nhỏ nhoi sẽ quấy rầy chúng ta.   Vô tư liên hệ đến sự vắng mặt của tâm tư hẹp hòi, nhưng  không có nghĩa là chúng ta từ bỏ sự quan tâm [không thành kiến].  Bởi vì chúng ta cần một phạm vi rộng rãi những sự việc, cho nên chúng ta cần vô tư, không thành kiến, vì thế nhằm để cởi mở tâm tư hơn, thánh thiện hơn, vô tư là cần thiết.  Luyến ái là khép cửa lại [với mọi thứ khác].  Đấy là chướng ngại.  Các sinh viên những người quá luyến ái với một môn học sẽ trở nên phiến diện; nhiều môn học cần phải được nghiên cứu.

 

Những sản phẩm thông thường của đời sống tâm tư hẹp hòi của thế gian được tổng hợp trong những gì được gọi là "tám pháp thế gian" hay "bát phong":

 

thích / không thích

được / mất

ca ngợi / phiền trách

danh dự / nhục nhã

 

Cung cách trần tục của đời sống buồn bả khi bốn thứ không thuận lợi - không thích, mất, phiền trách, và nhục nhã - xảy ra đến chúng ta hay người thân, nhưng chúng ta vui mừng những thứ này xảy ra cho kẻ thù của chúng ta.  Những kết quả này tất cả đều căn cứ trên vấn đề người ta hành động như thế nào, trái lại với lòng từ ái và bi mẫn chân thành căn cứ không trên hành động  mà trên sự kiện căn bản rằng những chúng sinh này muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, giống như chính mình, và vì thế tất cả là bình đẳng.  Một số hành động là tích cực, và một khác là tiêu cực,  nhưng các tác nhân của những hành vi đó là vì tất cả chúng sinh đều có khát vọng với hạnh phúc.  Chúng ta luôn luôn cần nhìn vào khía cạnh ấy.  Những hành vi là thứ yếu vì chúng đôi khi là tích cực và có lúc là tiêu cực - luôn luôn thay đổi - trái lại có một thứ không bao giờ thay đổi là con người muốn hạnh phúc và không muốn bất hạnh.

 

Khi một sự kiện sốc xảy ra, cho dù trong ngày hay trong giấc mơ, sự đáp ứng lập tức của chúng ta là cái "tôi", không phải người Tây Tạng, không phải người Mỹ, hay bất cứ chủng tộc nào; không phải Ấn Giáo, không phải Phật tử, hay  bất cứ hệ thống nào khác, nhưng chỉ là cái "tôi".  Điều này chỉ cho chúng ta trình độ nhân loại căn bản.  Trên trình độ quan trọng ấy tất cả là giống nhau.  Trẻ con không buồn nghĩ đến tôn giáo hay chủng tộc, giàu hay nghèo, chúng chỉ muốn nô đùa với nhau.  Với tuổi trẻ ý nghĩa con người đồng nhất là tươi mát hơn nhiều.  Khi chúng ta lớn lên, chúng ta tạo nên nhiều thứ phân biệt; nhiều sự tạo tác nhân tạo hay là giả tạo thật sự là thứ yếu đã trở nên quan trọng hơn, và sự quan tâm căn bản về loài người  bị gạt bỏ.  Rắc rối là ở đấy.

 

Với từ ái, yêu thương bị cuốn hút vào trong thành kiến bởi tham dục và thù hận cuối cùng phải chấm dứt.   Luyến ái, thương yêu bị tác động bởi tham muốn phiền não nhất thiết mang đến thù hận là chỗ đối lập với từ ái, và cùng với điều ấy đi đến ghen tỵ và tất cả những loại rắc rối.  Mặc dù tham dục tự nó không trực tiếp là tổn hại, nhưng nó gián tiếp đem đến tất cả những năng lực của tổn hại.  Đó là tại sao tiến trình mở rộng từ ái yêu thương bắt đầu với việc phát triển tính bình đẳng, sau điểm chính là cho dù một con người là tốt hay xấu đối với chúng ta nhưng sự kiện là người ấy cũng giống như chính chúng ta trong việc muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau.  Vì lòng tham muốn này hiện hữu trong tất cả chúng sinh, sự tỉnh thức của chúng ta về nó có thể áp dụng đến mọi người, làm căn bản cho lòng từ ái yêu thương của chúng ta thật là vững vàng.  Một khi chúng ta đặt sự nhấn mạnh trên sự tương đồng của họ với chính mình, từ ái có một nền tảng vửng chắc không bị dao động vào những hoàn cảnh tạm thời.

 

Trong sự thực tập của riêng tôi, thí dụ, khi tôi quan tâm đến một người đặc thù nào đấy đang tra tấn người Tây Tạng trên quê hương Tuyết Sơn của tôi, tôi không tập trung trên thái độ xấu và sự tiếp cận xấu của người ấy nhưng phản chiếu trên sự kiện rằng đây là một con người giống như tôi, cũng muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau nhưng tự động mang đến khổ đau cho người ấy và có khuynh hướng tàn phá chính hạnh phúc của  người ấy.  Khi tôi nhìn vào những sự kiện từ quan điểm này sự đáp ứng của tôi là từ ái và bi mẫn.  Tôi chọn nhận thức này và khía cạnh này.  Nếu tôi xem người ấy như một kẻ thù làm tổn hại người Tây Tạng, lòng từ ái sẽ không là sự đáp ứng của tôi.

 

Một trong những lý do chính tại sao mà tham dục và thù hận sinh khởi là chúng ta quá luyến ái với đời sống này.  Chúng ta muốn nó là thường còn, rằng nó sẽ tồn tại mãi mãi, và vì thế chúng ta tập trung quá nhiều trên những hoàn cảnh tạm thời và đặt quá nhiều những lợi ích giá trị và vật chất.  Cách duy nhất để tránh điều này là phản chiếu trên sự kiện rằng mọi thứ điều sẽ qua đi - và chính chúng ta cũng sẽ qua đời.  Như hành giả Tây Tạng vào thế kỷ mười ba và mười bốn là Tokmay Sangpo nói:

 

Chính là sự thực tập về lòng vị tha để từ bỏ chấp thủ luyến ái về đời sống này -

Những người thân cận, những người đồng hành với nhau trong một thời gian dài, rồi sẽ chia lìa,

Sự giàu sang và vật phẩm đạt được với sự cố gắng sẽ bị bỏ lại sau lưng,

Và ngôi nhà khách thân thể sẽ bị bỏ lại bởi vị khách tâm thức.

 

Không cần biết chúng ta sống bao lâu, khoảng một trăm năm, cuối cùng chúng ta sẽ chết, đánh mất cuộc sống con người quý báu.  Và điều này có thể xảy ra bất cứ lúc nào.  Cuộc sống này sẽ tàn hoại, bất chấp chúng ta có tài sản nhiều như thế nào.  Không có một sự giảu sang nào có thể kéo dài thêm sự sống của chúng ta.  Vào ngày chấm dứt, không một thứ gì chúng ta tích lũy được có thể giúp chúng ta, chúng ta phải bỏ lại tất cả mọi thứ sau lưng.  Trong sự quan tâm này, cái chết của một người giàu và cái chết của một con thú là giống nhau.

 

Trong vòng quanh quẩn của luyến ái đối tượng xuất hiện hoàn toàn tốt đẹp, nhưng thật sự nó không phải như thế.  Khi luyến ái bắt đầu phát triển, hãy cố gắng tìm ra những phẩm chất tiêu cực trong đối tượng tham dục của mình.  Một khi luyến ái đã   bén rể thật rất khó để mà đèn nén hay loại bỏ, cơ hội tốt nhất là cố  gắng xao lãng sự chú ý của chúng ta với đối tượng. cỏ lẻ ngay cả sự xa lìa chúng lại đằng sau một cách vật lý.

 

Luyến ái đến một người thân có thể rất mạnh mà nó đưa đến rối loạn với người thương vào thời điểm lâm chung.  Nắm chặc tay người thương, nước mắt tràn lan bám víu người thân, ngay cả than khóc trước mặt người ấy - những hành động này có thể phá hủy bất cứ cơ hội nào để người ấy phát sinh một khung cảnh đạo đức của tâm bằng việc làm cho người ấy dính chặc với kiếp sống này.  Một người thân nên cung ứng những điều kiện cho những tư tưởng đạo đức bẳng việc nhắc nhờ người sắp chết những hướng dẫn tôn giáo và nhắc nhở rằng sẽ có nhiều hiện tướng bất thường tạo ra bời nghiệp chướng trong sự chết.  Thật thiết yếu để thấu hiểu rằng không có điểm nào trong việc quyến luyến với những  hiện tướng vui mừng hay giận dữ bởi những người đang ở trong tình trạng kinh khủng của sự chết.

 

 

Ý CHÍ MẠNH MẼ

 

Thật quan trọng để gợi cảm hứng để mang đến sự cát tường với người khác và để phát triển sự ngưỡng mộ ấy vì thế nó trở nên càng lúc càng mạnh mẽ hơn.  Điều này không phải là sự luyến ái hay dính mắc bởi vì nó không bị trộn lẫn với những cảm xúc phiền não.  Sự ngưỡng mộ sinh khởi từ sự vô tư hay buông xả.

 

Một cá tính mạnh mẽ là cần thiết, nhưng không có việc trở thành vị kỷ.  Chúng ta cần một ý chí mạnh mẽ để đạt đến sự thánh thiện.  Để tạo nên một nguyện ước rằng chúng ta trở thành một chúng sinh có khả năng hổ trợ tất cả chúng sinh khắp hư không, chúng ta cần một tự ngã mạnh mẽ; với một cá tính hay tự ngã yếu đuối thì một mục tiêu như vậy là không thể đạt được.  Loại tham muốn này là hợp lý và không phải là luyến ái hay dính mắc.  Nó phải được tiếp nhận trong thực tập.  Tham muốn không hợp lý phải được từ bỏ hay loại trừ bởi vì nó là hẹp hòi.

 

 

LÀM CHO CUỘC SỐNG ĐẦY NÀY ĐỦ Ý NGHĨA

 

Buông xả sự chấp thủ với đời sống này không có nghĩa là chúng ta phải dừng lại việc săn sóc chính mình và người khác.  Khi tôi đề xuất rằng chúng ta xem thân thể như có bản chất của khổ đau, không có nghĩa rằng chúng ta phải quên lãng nó.  Thân thể chúng ta có thể giúp chúng ta đạt được những mục tiêu vĩ đại.  Như Tôn giả Tịch Thiên nói trong Hướng Dẫn Lối Sống Của Bồ Tát rằng:

 

Dựa trên chiếc thuyền thân thể con người,

Hãy giải thoát chính mình khỏi dòng sông mênh mang của khổ đau.

 

Sự thành công kỳ diệu và cội nguồn vô biên của bất cứ đời sống nào trong cõi luân hồi sẽ suy tàn một cách thiết yếu, nhưng thân thể phải được xem như cơ hội tự nhiên để mang lợi ích đến người khác.  Như thế, tự nó phải được nuôi dưỡng và phát triển trong một thái độ buông xả.  Thật cần thiết để chăm sóc điều kiện hiện tại của chúng ta trong một thể trạng của tâm hướng đến những đời sống tương lai.

 

Đức Phật dạy rằng chúng ta không nên thực tập cực đoan.  Tra tấn chính mình  là một cực đoan nên được tránh.  Như Long Thọ nói trong Tràng Hoa Quý Báu [2]đã nói rằng:

 

Việc thực hành không phải được hoàn thành

Bằng việc hành hạ thân thể.

Vì các con không từng từ bỏ việc làm tổn thương người khác

Và không đang giúp đở người khác [bằng việc hành xác chính mình].

 

Khi chúng ta không quan tâm đến nhu cầu căn bản của thân thể, chúng ta làm tổn hại nhiều chúng sinh vi sinh sống trong thân thể.  Chúng ta cũng nên tránh những cực đoan đối lập bằng việc sống xa hoa quá độ.  Có thể tạo nên những thức ăn, quần áo, nhà cửa, và đồ đạc trong nhà quý giá mà không phát sinh những cảm xúc phiền não chẳng hạn như luyến ái; những nhân tố ngoại tại không phải tự nó hay trong nó là tốt hay xấu.  Nhưng thật cũng không thích đáng nếu luyến ái gia tăng ngay cả đối với thức ăn, áo quần, v.v... thông thường.

 

Toại nguyện là chìa khóa.  Nếu chúng ta có sự toại nguyện với những thứ vật chất, chúng ta thật sự giảu sang.  Không toại nguyện, ngay cả nếu là một tỉ phú, chúng ta cũng không thấy hạnh phúc.  Chúng ta sẽ luôn luôn cảm thấy đói khát và thêm và thêm nữa, như thế làm cho chúng ta không phú quý, mà chỉ là nghèo cùng.  Nếu chúng ta tìm kiếm sự toại nguyện một cách ngoại tại, thì mãn nguyện sẽ  không bao giờ xảy ra.  Sự khao khát của chúng ta sẽ không bao giờ thỏa mãn.  Kinh điển của chúng ta nói về một vị vua đạt được sự thống trị toàn thế giới, đến mức mà ông bắt đầu nghĩ về việc chiếm lấy lãnh thổ của những vị trời.  Vào lúc kết thúc những phẩm chất tốt đẹp của ông đã bị tiêu tan bởi sự kiêu căng.

 

Toại nguyện là cần thiết cho hạnh phúc, vì thế hãy cố gắng thỏa mãn với thức ăn, quần áo, nhà cửa thích ứng.  Đối với một cư sĩ, hưng phấn trong tình dục thông thường không bị xem là sái quấy, nhưng quá nhấn mạnh về điều đó có thể mang đến thảm họa.  Mọi thứ cần được cảm nhận thức và thông qua trong một cung cách quân bình.  Điều này  là thiết yếu.  Hưng phấn và luyến ái quá nhiều với tình dục có thể là hạt giống của ly hôn.

 

Độ lượng hay khoan dung cũng cần thiết.  Khi Đức Phật là một sa môn trước khi giác ngộ, dường như những năng lực xấu ác ngoại tại đã đến để dày dò ngài.  Ngài không đáp ứng với hành động hung hãn hay đe dọa của sức mạnh.  Ngài chỉ trau dồi qua thiền quán từ ái và bi mẫn, và qua sự thực hành ấy đã phá hủy năng lực xấu ác.

 

Từ bỏ sự luyến ái với thế gian không có nghĩa là tách rời mình với thế giới.  Khi chúng ta phát sinh một khát vọng chính đáng vì hạnh phúc của người khác, nhân tính sẽ gia tăng sức mạnh.  Khi chúng ta trở nên buông xả hơn với thế giới, thay vì phủ nhận loài người, chúng ta sẽ trở nên nhân đạo hơn.  Chính Đức Phật  đã trình bày những thệ nguyện về lòng vị tha cho cư sĩ và cho tu sĩ,  mà có nghĩa là ngài hình dung những hành giả với những gia đình.  Chính mục tiêu của sự thực hành trong Đạo Phật là để hổ trợ người khác.  Nhằm để làm như thế, chúng ta phải duy trì sự hiện diện của mình trong xã hội.

 

Nguyên tác: The different between love and attachment

Ẩn Tâm Lộ ngày 13-3-3012

 


 



[1] Một cách tổng quát - Từ  hay từ ái là lòng yêu thương bình đẳng giừa người thân và kẻ oán; trong khi Luyến ái là lòng thương người thân và ghét kẻ oán, ái cũng là một chi trong mười hai nhân duyên tức là dính mắc - attachment  - sự dính mắc đến những gì của "tôi".

[2] Bảo hành vương chính luận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4537)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7356)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4769)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4881)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5317)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10296)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9043)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6112)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8810)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 4990)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]