Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07 - Nhận ra thân hữu: Bước thứ nhất

09/02/201920:13(Xem: 5491)
07 - Nhận ra thân hữu: Bước thứ nhất

NHẬN RA THÂN HỮU: Bước thứ nhất

 

 

Trong khi con thấy rằng những ai thân cận với con

đang chìm đắm trong đại dương luân hồi

Và giống như rơi vào cơn bảo lửa

Không có gì ghê sợ hơn để hành động

cho sự giải thoát của riêng con,

Quên lãng những ai con không

nhận ra qua tiến trình sinh tử.

-CHANDRANGOMIN, Lá thư cho một học trò

 

Đã tạo nên một thái độ bình đẳng đối với bạn hữu, kẻ thù, và người trung tính, chúng ta có một nền tảng để nhìn mỗi con người như người bạn thân nhất của chúng ta.  Khuynh hướng bây giờ là để phát triển một cảm giác chân thật về sự mật thiết với mọi người.  Vì sự mến chuộng được phát sinh một cách dễ dàng cho bạn hữu, chúng ta cần một kỷ năng cho việc trau dồi việc nhận thức tất cả chúng sinh như bạn hữu, sử dụng chính những mối quan hệ thân hữu nhất của chính chúng ta như kiểu mẫu.  Ai là người bạn thân nhất của chúng ta?

 

Một sự phương  pháp khác là sử dụng lòng yêu thương vô điều kiện của bà mẹ của chính mỗi chúng người như một kiểu mẫu.  Bởi vì tôi được xác  nhận như sự tái sinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba nên tôi đã không sống tại nhà cho đến ba hay bốn tuổi.  Như một đứa trẻ, tôi đã thăm mẹ tôi thực tế mỗi ngày, hay bà sẽ đến để gặp tôi, vì gia đình tôi sống gần nơi cư trú của tôi ở Lhasa, thù đô của Tây Tạng.  Bà luôn luôn có một trái tim hiền lương, rất tử bi, ân cần trong một sự cư xử rộng rãi đối với người khác, những người nghèo túng.  Bà tử tế đến mọi người.  Bà không bao giờ gắt gỏng đối với tôi, mặc dù sau này bà nói với tôi rằng tôi sẽ khó chịu nếu không vừa ý, và tôi sẽ giật mạnh lỗ tai của bà khi bà đang bồng tôi.  Bà đã nói rằng, một ngày nọ tôi đã đã kéo rất mạnh  và làm tổn thương vành tai của bà.

 

Từ lúc tôi bốn tuổi, người đem thức ăn cho tôi mỗi ngày ở Lhasa là một ông già hói đầu, râu quay nón tên là Ponpo.  Tôi rất gần gũi với ông; ông giống như một bà mẹ.  Khi tôi ở tại cung điện Mùa Hè học thuộc lòng những bài kinh luận, ông luôn luôn ở gần bên; tôi sẽ khóc nếu ông không làm thế.  Tối thiểu tôi phải thấy vạt áo của ông trong khi ông ngồi phía bên kia bình phong khoảng gần một thước từ cửa ra vào.  Ông phải ở đấy; bằng nếu không, tôi sẽ khóc.  Ponpo, là người đã từng nấu ăn cho Đức Đạt Lai Lạt Ma tiền nhiệm, không biết kể chuyện như thế nào, không biết đùa giờn như thế nào, và không được học  hỏi trong hình thức hoặc là tôn giáo hay những chủ đề khác.  Tôi rất quý trọng ông vì ông đã cung cấp thức ăn và săn sóc tôi.

 

Đối với tôi dường như chúng ta, giống như những động có vú như chó và mèo, thương mến nhất những ai nuôi nấng chúng ta.  Chúng ta thương mến bà mẹ của chúng ta không phải bởi vì các bà đã sinh ra chúng ta nhưng bởi vì các bà đã cho chúng ta sửa và săn sóc chúng ta.  Khi tôi bệnh, Ponpo cỏng tôi đi xung quanh hay để tôi trong lòng ông.  Khi chúng ta ôm một con mèo trong lòng, con mèo con sẽ rên ư ư thích thú; cũng giống với những đứa trẻ.  Tôi rất thích ông ta.

 

Mọi người, cho dù có tín ngưỡng hay không, có thể thấu hiểu từ kinh nghiệm tự nhiên và ý nghĩa thông thường rằng tình cảm quan trọng một cách thật sự từ ngày được sinh ra; đấy là căn bản của đời sống.  Chính sự sống còn thân thể của chúng ta đòi hỏi tình cảm của người khác, đến điều mà chúng ta cũng đáp ứng bằng tình cảm.  Mặc dù điều này hòa lẩn với luyến ái hay dính mắc, nhưng tình cảm này không căn cứ trên sự hấp dẫn của thân thể hay tình dục.  Loại tình cảm này, mặc dù không phải không thiên kiến, nhưng có thể được mở rộng để bao trùm tất cả chúng sinh, làm nó không định kiến.  Đây là những gì gọi là mở rộng tình thương cùng khắp hay mở rộng từ ái.

 

Đối với những thiền quán theo sau, nếu mối quan hệ đối với mẹ của hành giả phức tạp, thay vì thế chúng ta có thể quan tâm đến mối quan hệ tình mẹ lý tưởng, hay chúng ta có thể sử dụng bất cứ người thân, người bạn, hay bất cứ thành viên nào của gia đình.

 

THIỀN QUÁN

 

Trước nhất, chúng ta hãy quan tâm đến nền tảng của loại thiền quán này.  Sự sắp xếp được xây dựng trên giả định của tái sinh, là điều chúng ta có một ý niệm mơ hồ có thể là đúng, chúng ta có thể sử dụng để khảo sát kỷ lưỡng mối quan hệ mật thiết của vô thỉ tái sinh cho những mối quan hệ với những người khác.  Tuy nhiên, nếu chúng ta không hoài nghi rằng tái sinh là thật, vẫn có thể sử dụng những bước này như một sự thực tập quán tưởng thuần  khiết để giúp tháo gở những gút mắc trong những mối quan hệ của chúng ta. 

 

1- Quán chiếu rằng nếu có tái sinh, vòng luân hồi, có nghĩa rằng những sự sinh của chinh chúng ta là không có bắt đầu (vô thỉ).

 

2- Quan tâm rằng khi chúng ta sinh ra từ một bào thai như một con thú, hay một con nhền nhện, chúng ta đòi hỏi một bà mẹ.  Và bởi vì sự  sinh của chúng ta là vô số, chúng ta phải có vô số bà mẹ trải qua nhiều kiếp sống.  Điều này ngụ  ý rằng mỗi chúng sinh đã từng là mẹ của chúng ta vào một kiếp sống nào đấy.  Nếu quý vị có rắc rối đến với kết luận ấy, thế thì hãy thấy quý vị có thể đi theo sự tương tục của những đời sống hay không và khám phá ra rằng có bất cứ chúng sinh nào không từng là bà mẹ của chúng ta hay  không, một kết luận như thế là không thể được.

 

3- Quán chiếu rằng những lúc chúng ta được sinh ra từ một bào thai hay một cái trứng là vô hạn, và vì thế các bà mẹ của chúng ta cũng là vô số.

 

4- Phản chiếu trên những điểm này, hãy thấu hiểu rằng mỗi chúng siinh  trong kiếp sống hiện tại của chúng ta đã là bà mẹ của chúng ta trong nhiều lần.  Đừng vội vả qua những bước này; khuynh hướng ở đây là không chấp nhận một sự hợp lý (logic) nông cạn, mà thấm nhuần tâm thức và thái độ của chúng ta với tác động của nhận thức về tái sinh.  Hãy cố gắng trên điều này, ví dụ như thế, và xem nó có hữu dụng hay không.

 

          * Hãy nghĩ về một người bạn thân nhất của hành giả và xác định rằng người bạn này, qua tương tục của những kiếp sống, đã là một người bạn nuôi nấng [ta].  Hãy giữ người này trong tâm cho đến khi ta cảm thấy một sự thay đổi nhận thức.

 

          * Sau đó dần dần xem người khác, không quá gần gũi, những  người bạn, từng người một trong cùng một cách như thế, xác nhận và cảm nhận rằng qua sự tương tục của những kiếp sống, họ là rất gần gũi với ta.  Điều này có thể cần nhiều ngày để thực hành - ngay cả hàng tuần.

 

          * Rồi thì đem đến tâm một người trung tính - người nào đấy không từng giúp đở cũng không từng làm tổn hại ta trong kiếp sống này.  Hãy xem rằng người này qua những kiếp sống cũng có những lúc nào đấy là một người gần gũi và nuôi nấng như người bạn thân thiết nhất của chúng ta.

 

          * Dần dần mở rộng sự nhận thức này đến những người trung tính - những người đã thấy trong một trạm xe điện ngầm, đi ngang qua trên đường, hay thấy trong một cửa hàng.

 

          * Khi chúng ta trở nên thành thạo thế nào ấy với việc nhận ra những người bạn và những người trung tính đã từng nuôi nấng ta, và có thể cảm thấy nhận thức của chúng ta thay đổi như thế nào, xem xét một người nào đấy đã từng làm gây hại một ít đến ta hay người thân chúng ta.  Hãy bắt đầu với một kẻ thù thứ yếu, như một người đã nói điều gì đấy bình phẩm ta, vì thế chúng ta có thể phát triển một kinh nghiệm với việc tạm thời để qua một bên những cảm giác tiêu cực trong thiện ý của việc thực chứng rằng tại một thời điểm nào đấy chúng ta đã là từng là những người bạn thân.  Nếu chúng ta nhảy quá nhanh trong việc lưu tâm đến  những người mà chúng ta thật là không thích, thì ý tưởng tiêu cực sẽ có thể làm lưỡng lự tiến trình của chúng ta.

 

          * Khi chúng ta cảm thấy quan điểm của chúng ta đã thay đổi đối với kẻ thù không quan trọng, trụ lại với thái độ mới ấy trong một lúc, rồi thì quan tâm một cách chậm rãi đến trình độ tiếp theo của kẻ thù (kẻ thù nặng cân hơn).

 

Qua sự thực tập, có thể xem mỗi chúng sinh như một người thân hữu.  Nói thì dễ, nhưng làm thì khó.  Đừng trở nên thối chí; hãy duy trì sự diễn tập những bước này hết lần này đến lần khác.  Tích tập kinh nghiệm một cách từ từ.

 

Đối với tôi, do tôi mang trách nhiệm vì quyền lợi của Tây Tạng, những người khó khăn nhất để nhận thức như những thân hữu là những ai đang làm tổn hại đến đồng bào Tây Tạng một cách chủ tâm.  Tuy thế, từ kinh nghiệm với những thân hữu, người trung tính, và những kẻ thù ít quan trọng, tôi có thể thấy rằng một cách căn bản họ không có khác biệt.

 

Điều gì đã làm tôi khỏi bị chán nản mặc dù hơn năm mươi năm hành động cho Tây Tạng không có nhiều thành công trước nhất vì nguyên nhân là công bằng, chân thật, và lợi ích cho người khác.  Nguyên nhân chân thật chưa đủ; nó phải ích lợi.  Việc làm của tôi cho Tây Tạng không gia tăng hoặc là tiếng tăm của tôi, ảnh hưởng của tôi, năng lực của tôi, hay lợi ích của tôi trong bất cứ cách nào; đấy là cho đồng bào Tây Tạng, những người có quyền để được tự do và để bảo tồn giáo huấn Đạo Phật lợi ích đến tất cả chúng sinh.  Vì vậy, cho dù chúng tôi có đạt được mục tiêu trong kiếp sống này của chúng tôi hay không, thì nó đáng giá để duy trì cuộc đấu tranh.  Chúng tôi đang ở vào một thời điểm cấp bách qua việc người Hoa đổ nhanh chóng vào Tây Tạng; giống như Mãn Châu và Nội Mông, là những nơi đã hoàn toàn trở thành bị đồng hóa với văn hóa Hán tộc.  Văn hóa Tây Tạng có thể bị biến mất nếu xu hướng hiện tại tiếp diễn.  Một dấu hiệu hy vọng là bây giờ mọi người trên thế giới kể cả chính nhiều người Hoa, đang ý thức hơn về những gì đang xảy ra - khả năng mất mát có thể có đối với thế giới về một nền văn hóa quý giá và do vậy có sự quan tâm đạo đức hơn.  Vấn đề sẽ tiếp tục từ thế hệ này sang thế  hệ khác không giống như một nhiệm kỳ chính trị ở văn phòng, nó không có giới hạn bởi một sự phân ranh giới nào đó cua thời gian.  Đây là những lý do của tôi cho việc duy trì lòng nhiệt huyết.

 

KỶ NĂNG HỔ TRỢ

 

Giữa những sự thiền quán, thảng hoặc xác định bất cứ ai mà chúng ta chạm trán như là một thân hữu giúp cho sự trưởng thành.  Thí dụ, khi đi ngang qua một người trung tính (không thân cũng không thù) trong một đám đông, hãy nghĩ:  Con người này dường như không có bất cứ liên hệ nào đối với tôi trong kiếp sống này, nhưng qua sự tương tục của những kiếp sống  chắc chắn đã từng là cha, mẹ, con, hay bạn thân của tôi.  Trong cách này, chúng ta sẽ từ từ phát triển một cảm nhận rằng tất cả chúng sinh là những thân hữu của chúng ta.

 

LƯỢNG ĐỊNH THÀNH CÔNG

 

Với nhiều thực tập sẽ đi đến điều:  ngay cả khi chúng ta thấy một bọ, chúng ta sẽ nghĩ, Ô, con vật này đã được sinh ra trong một điều kiện khổ sở như vậy!  Mặc dù tôi là một con người, và tạo vật này là một con bọ, trong quá khứ đã là  mẹ tôi, và tôi là con của bà.  Vào lúc ấy, sự sống của tôi tùy thuộc vào bà, và bà đã yêu thương tôi hơn cả đời sống của chính bà.  Sau sự thiền quán đầy đủ, loại suy nghĩ này sẽ sinh khởi một cách tự phát.  Dấu hiệu của việc có nhận thức hoàn toàn thành công về vấn đề tất cả chúng sinh như những thân hữu giúp cho sự trưởng thành là khi chúng ta nhìn vào thế giới chung quanh chúng ta và nghĩ, những chúng sinh từ thú vật  trở lên đã từng chăm sóc tôi trong những thời quá khứ không chỉ chăm sóc tôi một lần mà là nhiều lần.

 

 

 

 

 

Nguyên tác: The First Step: Recognizing Friends trích từ quyển How to Expand Love

Ẩn Tâm Lộ ngày 22/12/2011

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/02/2021(Xem: 5188)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5610)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4471)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5038)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 4623)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5317)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
14/02/2021(Xem: 4813)
Phật giảng thuyết có ba phương cách: a. Giảng trực tiếp như các kinh đạo Phật Nguyên thủy, b. Giảng bằng phủ định, từ chối là không và phủ định hai lần là xác định tuyệt đối. c. Giảng bằng biểu tượng, đưa câu chuyện cánh hoa sen hay viên ngọc trong túi người ăn mày để biểu tượng hoá ý nghĩa sâu xa của kinh. Phương cách thứ ba này là kinh Pháp Hoa. Có nhiều biểu tượng nhưng nổi bật nhất là cánh hoa sen là biểu tượng kinh Pháp Hoa.
10/02/2021(Xem: 9529)
Long Khánh là một thị xã ven Đô, Phật giáo tuy không sung túc như các Tỉnh miền Trung Nam bộ, nhưng sớm có những ngôi chùa khang trang trước 1975, do một số chư Tăng miền Trung khai sơn lập địa. Hiện nay Long Khánh có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Hiển Mật hay còn gọi là chùa Ruộng Lớn tọa lạc tại Thị xã Long Khánh, chùa Huyền Trang, tọa lạc tại ấp Bàu Cối, xã Bảo Quang,.…Nhưng điều đáng nói là một ngôi Tam Bảo hình thành trong vòng 5 năm,khá bề thế. Qua tổng thể kiến trúc và xây dựng, không ai ngờ hoàn hảo trong thời gian cực ngắn, đó là Tịnh xá Ngọc Xuân, do sư Giác Đăng,đệ tử HT Giác Hà, hệ phái Khất sĩ, thuộc giáo đoàn 5 của Đức thầy Lý.
08/02/2021(Xem: 4895)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4129)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]