Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03 - Quan điểm của tôi

09/02/201920:11(Xem: 4933)
03 - Quan điểm của tôi

QUAN ĐIỂM CỦA TÔI

Nếu kẻ thù nội tại là thù hận không được thuần hóa,

Khi người ta cố gắng để thuần hóa kẻ thù ngoại tại, kẻ thù lại gia tăng.

Do vậy, sự thực tập của người thông tuệ là tự thuần hóa chính họ.

Bằng phương tiện những năng lực của từ ái và bi mẫn.

 

- BỒ TÁT TOKMAY SANGPO

 

 

 

Khi tôi nói về từ ái và bi mẫn, tôi không nói như một Phật tử, cũng không như một người Tây Tạng, cũng không phải như một Đạt Lai Lạt Ma.  Tôi thực hiện điều này như một con người nói với những người khác.  Tôi hy vọng rằng quý vị tại thời điểm này sẽ nghĩ về chính quý vị như một con người thay vì là một người Mỹ châu, Á châu, Âu châu, Phi châu, hay thành viên của một xứ sở đặc thù nào đấy.  Những sự trung thành này là thứ yếu.  Nếu quý vị và tôi thấy một nền tảng chung như những con người, chúng ta sẽ giao tiếp trên cấp độ căn bản này.  Nếu tôi nói, "tôi là một thầy tu", hay "tôi là một Phật tử", những thứ  này, trong việc so sánh đến bản chất như một con người, là tạm thời.  Là con người là căn bản, nền tảng mà từ đấy tất cả chúng ta phát sinh.  Chúng ta sinh ra như một con người, và điều ấy không thay đổi cho đến khi chết.  Tất cả những thứ khác - cho dù chúng ta có học vấn hay không học vấn, già hay trẻ, giàu hay nghèo - là thứ yếu.

 

GIẢI QUYẾT RẮC RỐI

 

Trong những thành phố lớn, trong nông  trại, trong những vùng xa xôi hẻo lánh, khắp các vùng nông thôn, con người đang di chuyển một cách bận rộn.  Tại sao? Tất cả chúng ta đều bị thúc đẩy bởi một khát vọng làm cho chính chúng ta hạnh phúc.  Làm như thế là đúng.  Tuy nhiên, chúng ta phải luôn nhớ trong tâm rằng liên  hệ quá nhiều với những khía cạnh nông cạn của đời sống sẽ không giải quyết những vấn đề lớn hơn bất toại ý của chúng ta.  Từ ái, bi mẫn, và quan tâm cho kẻ khác là những cội nguồn hạnh phúc thật sự.  Với những thứ này phong phú, chúng ta sẽ không bị quấy rầy bởi ngay cả những hoàn cảnh khó chịu nhất.  Tuy nhiên, nếu chúng ta nuôi dưỡng thù  hận, chúng ta sẽ không hạnh phúc ngay cả trong cảnh giàu có xa hoa.  Vì thế, nếu chúng ta thật sự muốn hạnh phúc, chúng ta phải mở rộng môi trường của từ ái yêu thương.  Điều này là cả tư duy tôn giáo và cảm nhận căn bản thông thường.

 

Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận.  Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.  Trái lại, nếu chúng ta kiềm chế sự sân hận của mình và biểu lộ sự ngược lại của nó - từ ái, bi mẫn, bao dung, và kiên nhẫn - thế thì không chỉ chúng ta duy trì trong hòa bình mà sự giận dữ của  người khác cũng sẽ dần dần giảm bớt.  Không ai có thể tranh luận với sự thật rằng trong sự hiện diện của sân hận, hòa bình là không thể có.  Chỉ qua ân cần và từ ái, niềm hòa bình tâm hồn mới có thể đạt được.

 

Chỉ có con người mới có thể phán xét và suy luận; chúng ta thấu hiểu những hậu quả và nghĩ về lâu về dài.  Cũng đúng rằng con người có thể phát triển lòng từ ái yêu thương vô biên, trái lại đối với kiến thức tối đa của con người thì các thú vật chỉ có những thình thức hạn chế của tình cảm và yêu thương.  Tuy nhiên, khi con người trở nên giận dữ, tất cả khả năng này bị mất đi.  Không kẻ thù nào trang bị với vũ khí thôi có thể  tước bỏ những phẩm chất này, nhưng sân hận có thể làm việc ấy.  Nó là kẻ tàn phá.

 

Nếu chúng ta nhìn một cách sâu sắc vào những thứ như vậy, những dấu vết của các hành động của chúng ta có thể tìm thấy trong tâm thức.  Những thái độ tự chuốc lấy thất bại, tự tổn thương, tự hại sinh khởi không phải theo ý chí riêng của họ mà do si mê ám tối.  Thành công cũng thế, được thấy trong chính họ.  Xuất phát từ kỷ luật tự giác, tự tỉnh thức, và việc nhận ra rõ ràng những nhược điểm của sân hận và những ảnh hưởng tích cực của ân cần sẽ đi đến hòa bình.  Thí dụ, vào lúc hiện tại, chúng ta có thể là một người phát sinh cáu gắt dễ dàng.  Tuy nhiên, với sự thấu hiểu rõ ràng và tỉnh thức, sự tức tối của chúng ta có thể trước nhất bị xói  mòn, và rồi bị thay thế.  Mục tiêu của quyển sách này là để chuẩn bị nền tảng cho sự thông hiểu ấy mà từ ấy lòng yêu thương chân chính hay từ ái có thể sinh trưởng.  Chúng ta cần trau dồi tâm thức.

 

Tất cả các tôn giáo đều dạy một thông điệp về từ ái, bi mẫn, chân thành và trung thực.  Mỗi hệ thống tìm kiếm con đường riêng của nó để cải thiện đời sống cho tất cả chúng ta.  Tuy thế, nếu chúng ta nhấn mạnh quá nhiều bào triết lý, tôn giáo hay lý thuyết của chính chúng ta, trở nên quá dính mắc, chấp trước với nó, và cố gắng để áp đặt nó trên những người khác, kết quả sẽ là rắc rối.  Một cách căn bản, tất cả các bậc thầy vĩ đại kể cả Đức Thế Tôn Thích Ca của Phật Giáo, Chúa Giê-Su của Ki Tô Giáo, Muhammad của Hồi Giáo, và Moses của Do Thái Giáo được thúc đẩy bởi một niềm  khao khát giúp đở môn đồ của các ngài.  Các ngài không tìm cầu để có được bất cứ điều gì đấy cho chính các ngài, cũng không để tạo thêm rắc rối cho thế giới.

 

Tôn giáo có thể đồng nghĩa với những vấn đề triết lý sâu sắc, nhưng từ ái và bi mẫn là trái tim của tôn giáo.  Do thế, trong quyển sách này, tôi sẽ diễn tả việc thực hành từ ái mà tôi cũng làm như thế.  Trong kinh nghiệm việc thực hành từ ái đem đến hòa bình của tâm hồn cho chính tôi và hổ trợ người khác.  Những người vị kỷ ngu ngơ luôn luôn nghĩ về chính họ, và kết quả luôn luôn là tiêu cực.  Những người thông tuệ nghĩ về những người khác, giúp đở họ tối đa mà họ có thể, và kết quả là hạnh phúc.  Từ ái và bi mẫn lợi lạc cho chính chúng ta và người khác.  Qua lòng ân cần đối với người khác, tâm tư và trái tim chúng ta sẽ rộng mở đến hòa bình.

 

Mở rộng môi trường nôi tại này dến những cộng đồng rộng lớn hơn chung quanh chúng ta sẽ đem đến hòa hiệp, thống nhất, và hợp tác; mở rộng hòa bình xa hơn đến những quốc gia và rồi thì đến thế giới sẽ mang đến lòng tin hổ tương, tôn trọng qua lại, sự giao tiếp chân thành, và cuối cùng là những nổ lực hòa nhập thành công để giải quyết những rắc rối của thế giới.  Tất cả những điều này là có thể.  Nhưng trước nhất chúng ta phải thay đổi chính mình.

 

Mỗi chúng ta có trách nhiệm đối với toàn thể nhân loại.  Chúng ta cần nghĩ về mỗi người chúng ta như những người anh chị em thật sự, và quan tâm đến quyền lợi của mỗi chúng ta.  Chúng ta phải tìm cách giảm đi nổi khổ đau của kẻ khác.  Hơn là hành động chỉ để đạt đến sự giàu sang, chúng ta cần làm điều gì đấy đầy đủ ý nghĩa, điều gì đấy một cách nghiêm chỉnh hướng trực tiếp đến lợi ích của toàn thể nhân loại.

 

Được thúc đẩy bởi bi mẫn và từ ái, tôn trọng những quyền của kẻ khác - điều này thật sự là tôn giáo.  Mặc áo tu sĩ nói về Thượng đế nhưng suy nghĩ một cách vị kỷ thì không phải là một hành vi tôn giáo.  Trái lại, một nhà chính trị hay luật sư với sự quan tâm thật sự cho nhân loại, những người cáng đáng những hành động làm lợi ích cho người khác thật sự là thực hành tôn giáo.  Mục tiêu phải là phụng sự cho kẻ khác, chứ không phải khống chế thiên hạ.  Những ai thực hành từ ái thông tuệ, như Đại hành giả Ấn Độ Long Thọ đã nói trong Tràng Hoa Quý Báu rằng:

 

Đã phân tích trọn vẹn

Tất cả những hành vi của thân thể, lời nói và tâm ý,

Những ai nhận ra những gì lợi ích cho tự thân và người khác

Luôn luôn thực hiện những điều này là thông tuệ.

 

Một hành vi tôn giáo là được thực hiện ra với động cơ tốt lành, với tư tưởng chân thành vì lợi ích của người khác.  Tôn giáo là ở đây và bây giờ trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Nếu chúng ta hướng dẫn đời sống ấy vì lợi ích của thế giới, thì đây là dấu ấn xác nhận một đời sống tôn giáo.

 

Đây là tôn giáo đơn giản của tôi.  Không cần Thánh đường, Phật đường.  Không cần những triết lý phức tạp.  Tâm thức của chính chúng ta, trái tim của chính chúng ta, là đền đài; triết lý của chúng ta đơn giản là ân cần.

 

Nguyên tác: My Outlook trích từ quyển How to Expand Love

Ẩn Tâm Lộ ngày 24/09/2011

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4935)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5083)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4433)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4102)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4693)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4154)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3600)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6881)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6956)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5052)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]