Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phiếm Luận Về Ma

11/01/201915:05(Xem: 6121)
Phiếm Luận Về Ma
ghost2_ma
Phiếm Luận Về Ma

Trước khi bàn về ma, chúng ta thử định nghĩa xem “ma” là gì. Thông thường, ma là người đã chết hay người chết. Đang sống thì là người. Nhưng vừa chết một cái đã thành ma, thây ma. Chính vì thế đám ma là nghi thức hoặc tục lệ để khóc than, để tang, thăm viếng, tiễn đưa hoặc chôn cất, hỏa thiêu người chết.

Thế nhưng theo kinh điển, “ma” do chữ Phạn Mâra mà ra. Vì vần “r” không có trong tiếng Trung Hoa nên người Trung Hoa thường gọi là Ma-la thay vì là Ma-ra. Còn Tây Phương định nghĩa “ma” (ghost) như sau, “Đó là sự hiện diện của một người đã chết và được tin rằng xuất hiện và biểu lộ như có sự sống, thường hiện ra dưới hình ảnh mờ mờ.” (an apparition of a dead person which is believed to appear or become manifest to the living, typically as a nebulous image)

Khác với quỷ hay yêu tinh có thể giết hoặc ăn thịt người, ma không hề hại ai. Ma chỉ hù dọa, cám dỗ hoặc làm người ta sợ chứ không hại được người. Tây Phương thật chí lý khi nói rằng “Dead men tell no tales” tức “Người chết thì không còn tiết lộ bí mật/nói năng gì được nữa”. Chính vì thế mà để “diệt khẩu”, diệt nhân chứng, những sát thủ thường giết, thủ tiêu nạn nhân để không một ai biết gì về hành vi tàn ác nữa. Xác chết nằm đó chằng thể nói năng được gì, làm sao có thể hại được người? Thế nhưng tại sao người ta lại sợ ma? Theo Phân Tâm Học, người ta sợ ma không phải sợ cái xác nằm đó mà chính là sợ Sự Chết hay Cái Chết vì Cái Chết hay Sự Chết là điều ghê gớm nhất.

Theo truyền khẩu, sách, truyện, phim ảnh…và có thể do “thần hồn nát thần tính” người ta thấy ma hiện ra dưới rất nhiều hình thức.
-Tiếng kẽo kẹt trong đêm ở bụi tre cũng có thể là ma.
-Một bóng trắng tha thướt trong rừng, có thể do mắt quáng gà, cũng có thể là ma.
-Trong đêm, cánh cửa không có người bỗng nhiên mở ra, cũng có thể là ma.
-Tiếng hú trong tòa lâu đài là do tác động của gió thổi xuyên qua nhiều hành lanh, khe hở cũng có thể là ma kêu quỷ hờn.
-Một bóng người mờ mờ trong đêm tối, giống như người đàn bà gục đầu khóc bên mồ trong nghĩa trang …nhưng khi đến gần thì chẳng có gì cả…cũng có thể là ma.
-Một cảnh cây đong đưa trong cơn gió ban đêm cũng có thể là ma đánh đu.
-Ánh lửa lập lòe trong đêm do đom đóm hay lân tinh chiếu sáng trên cánh đồng vắng…cũng thể là ma trơi.
-Đang ăn uống bình thường, bỗng nhiên nhảy chồm chồm, nói năng nhảm nhí…do bị dồn nén, khủng hoảng tâm thần…cũng có thể nói là bị ma nhập.
-Căn nhà dường như luôn luôn bị phá phách lúc về đêm…như ném đá, cậy cửa…có thể do băng đảng rắn mắt nào đó nghịch ngợm…cũng có thể gọi đó là căn nhà có ma. Nói tóm lại ma hiện diện khắp nơi, từ Âu sang Á. Chỉ khi nào con người “bất tử” tức không chết nữa hoặc tận thế thì mới hết chuyện ma.
- Thế nhưng nhiều khi ma cũng bị “vu oan giá họa”. Chẳng hạn một người do lòng tham-sân-si quá độ, không kiểm soát được mình, đã làm chuyện xấu xa tồi bại, thay vì nhận lỗi lại đổ thừa là “bị ma đưa lối, quỷ đưa đường.” Xin nhớ, mọi hành vi tốt xấu trên thế gian này đểu do chính mình là tác giả hay tác nhân chứ ma quỷ, thần linh không thể can dự vào. Chính mình phải nhận lãnh hậu quả việc mình làm, không thể van vái thần linh, ma quỷ  để rửa tội hay chạy tội được.

            Trên đây chỉ là những con ma tưởng tượng, cảm thấy, dường như thấy, nhưng không thực. Tuy nhiên có những loại ma dưới đây thì rất thực và đang sống chung với chúng ta:
-Ma mãnh tức là kẻ khôn ngoan những chuyện lặt vặt để thủ lợi.
-Ma bùn tức kẻ có những hành vi ám muội không tốt.
-Ma túy bao gồm cần sa, bạch phiến, thuốc phiện… tàn hại tâm trí và cuộc đời con người.
-Ma men là những người nghiện rượu, tê liệt cả ý chí, sống đời phế bỏ, làm khổ cha mẹ, vợ con.
-Ma-cà-bông là bọn người tụ họp, lang thang, phá làng phá xóm, rải đinh trên đường, vẽ bậy lên tường, thậm chí ăn trộm chó bị người ta đánh nhừ tử.
-Ma xó là hạng người ưa tọc mạch vào chuyện riêng của gia đình người ta.
-Ma nữ là những cô gái có thân hình gợi dục, dùng mọi hình thức uốn éo, mời mọc, lời nói lả lơi để quyến rũ người nam thèm muốn, giao hoan, làm tình.
-Ma đói là kẻ quá tham ăn, tham uống, mà người đời gọi là phàm phu tục tử.
-Ma ăn cỗ là loại người làm ăn bất chính như nhũng lạm, ăn cắp của công, xén bớt tiền bạc cứu trợ, dự án để bỏ túi riêng.
-Ma đuổi – là chính mình ù té chạy vì chuyện gì đó, nghe tiếng chân thình thịch phía sau, sợ hết hồn,  nhưng đó chính là tiếng chân của mình.
-Ma phiền là phiền não, buồn bực luôn luôn làm chúng ta cảm thấy không hạnh phúc. Ma phiền não ngự trị trong tâm trí mọi người và hành khổ con người bất cứ lúc nào và ở đâu.

            Đó là ma của cuộc đời, của thế tục, của nhân gian và sống thực trong nhân gian. Thế còn Đạo Phật nhìn ma như thế nào? Trên Thư Viện Hoa Sen, cư sĩ Hoang Phong đã có một bài viết về ma với tựa đề, “Có Ma Hay Không?”. Theo sưu tầm của Hoang Phong thì:
“Thật ra thì ma nhiều lắm, nhưng tựu trung được kinh sách phân loại thành bốn thứ gọi là Tứ ma. 
Tứ Ma của Thừa Kinh Điển là:
 1. Ma cấu hợp (Skandhamara) : đó là thứ ma quái tượng trưng bởi ngũ uẩn làm cơ sở cho khổ đau và cái chết mà ta phải gánh chịu trong cõi luân hồi. Con ma đó gọi là "con ma gánh chịu cái chết", kinh sách tiếng Hán gọi là Ấm ma, Uẩn ma, hay Ngũ chúng ma.
 2. Ma dục vọng (Klesamara) : bao gồm các dục vọng, sự ham muốn, thèm khát, xui khiến ta phạm vào những hành động tiêu cực, tạo ra nghiệp xấu, thu ngắn kiếp nhân sinh, đưa ta vào vòng khổ đau của cõi luân hồi. Đó là "con ma đưa đến cái chết", kinh sách gốc Hán gọi là Phiền não ma.
 3. Ma thần chết (Mrtyumara) : đó là sự hủy hoại, cứu cánh tất nhiên của sự sinh, hậu quả của bản chấtcấu hợp của mọi hiện tượng, tức đấy là quy luật vô thường. Con ma này có tên là "con ma vô thường",kinh sách gốc Hán gọi là Tử ma.
 4. Ma con trời (Devaputramara) : bao gồm những thứ ma làm cho ta đãng trí, phân tâm, xúi dục ta bám víu vào ảo giác của những vật thể bên ngoài và cả trong tâm thức, cản trở sự tu học. Đó là "con ma bấn loạn", kinh sách gốc Hán gọi là Tha-hoá Tự-tại Thiên-tử ma, gọi tắt là Thiên ma, tức thần thánh tay sai của Thiên-hóa Tự-tại Vương.
 Tứ ma của Thừa Kim Cương là
 1. Ma xiềng xích (tiếng Tây Tạng : thogs-bcas-kyi bdud) : con ma này rất hung tợn và lộ liễu, gây ra phiền não, bệnh tật và các chướng ngại bên ngoài. Đây là con ma của sự bám víu và ghét bỏ đối với những vật thể và hiện tượng chung quanh. Con ma này luôn tìm cách trói buộc ta vào những thứ ấy. Kinh sách gốc Hán gọi con ma xiềng xích là Phiền não ma.
 2. Ma thả lỏng (tiếng Tây tạng : thogs-med-kyi bdud) : đó là ba thứ nọc độc chính và năm thứ nọc độc phụ, tức là những dục vọng chính yếu và thứ yếu, những tư tưởng hay tư duy bấn loạn chưa được khắc phục, xâm chiếm tâm thức và gây ra khổ đau cho ta. Kinh sách gốc Hán gọi con ma này là Tâm ma.
 3. Ma khánh hỷ (tiếng Tây tạng : dga’-brod-kyi bdud) : đó là con ma đội lốt hân hoan, vui thích, thỏa mãn với chính mình, xem ta hơn cả mọi người, xúi dục ta bám víu vào những "kết quả" và "kinh nghiệm"thiền định đã thực hiện được và cho đấy là cao siêu, rồi trở nên hãnh diện, không chịu cố gắng tu tậpthêm. Kinh sách gốc Hán gọi con ma này là Thiện-căn ma.
 4. Ma kiêu căng (tiếng Tây tạng : snyems-byed-kyi bdud) : đó là con ma ngạo mạn, tự mãn, tự kiêu, tự đại. Đấy là bản chất căn bản của con ma mang tên là cái "ta", cái "tôi", cái "ngã". Kinh sách gốc Hán gọi con mà này là Tam-muội ma.

            Tôi năm nay đã ngoại thất tuần. Ở Việt Nam, từ lúc tấm bé đã nghe nói về ma, đọc truyện ma, kể chuyện  ma, qua các ngõ vắng về đêm đều ù té chạy vì sợ ma. Rồi qua Mỹ hơn 30 năm cũng nghe người ta nói, viết về ma, chụp hình được cả ma nhưng bản thân chưa hề thấy ma bao giờ. Thế nhưng có điều tức cười là, để mua vui cho đời, với tư cách một nhà văn, để ẩn dụ và triết lý, tôi cũng viết vài truyện ngắn về ma, hoàn toàn bịa đặt. Nay học Phật, tôi có ý nghĩ hoàn toàn khác về ma. Là người con Phật chúng ta nên và không nên:
1)      Không nên sợ ma. Ma khác với quỷ và yêu tinh - ma không bao giờ hại người. Vì thế chúng ta nên đối xử với ma như người còn sống. Theo giáo lý nhà Phật, ma là những oan hồn uổng tử không thể đầu thai hoặc vì chết oan ức, hoặc còn quyến luyến, hận thù, thương tiếc những gì có trước khi chết khiến thần thức u trệ không sao đầu thai được. Nghĩ cho cùng ma thật đáng thương, đáng cứu vớt.
2)      Nếu ma có hiện lên, chẳng qua là ma muốn giãi bày một tâm sự, một niềm u uẩn gì đó, một nguyện vọng gì đó, hoặc vì đói lạnh chứ không phải để hãm hại chúng ta. Tôi chưa bao giờ nghe nói ma hại người - mà chỉ có người hại người thôi.
3)      Không nên tìm thầy pháp, thầy bùa để trừ ma. Làm như thế là hủy hoại lòng Từ Bi. Đức Phật dạy chúng ta xót thương và cứu vớt muôn loài chúng sinh. Bồ Tát  Địa Tạng còn tìm vào địa ngục để độ cho những kẻ có tội mà. Ma nhiều khi chính là ông bà, cha mẹ, anh em, con cái chúng ta đã chết đi. Tại sao chúng ta không cứu vớt họ mà lại “trừ khử” họ?
4)      Do đó, khi thật sự thấy ma, bị ma ám, ma hành, chúng ta nên mời ni/sư tụng kinh siêu độ trong tinh thần Từ Bi/Giải Thoát của nhà Phật. Chư tăng/ni trong mọi khóa lễ đều cầu nguyện “Âm siêu dương thới”, tức người chết cũng cần được hưởng những gì tốt lành qua lời dạy của chư Phật.

Tuy nhiên có những thứ ma sau đây chúng ta phải cảnh giác, xa lánh hoặc diệt trừ, đó là:
-Ma túy cần phải diệt trừ vì nó tàn hại nhiều thế hệ thanh niên, gây tội phạm và băng hoại xã hội.
-Ma men cần phải xa lánh vì “rượu vào lời ra” hoặc không còn kiểm soát được đầu óc khiến lái xe giết người hàng loạt, đánh đập vợ con, gia đình đổ vỡ, bản thân sống như một kẻ tàn phế.
-Ma-cà-bông sống lang thang phóng đãng, phá làng phá xóm, vẽ bậy lên tường, ăn cắp ăn trộm, nghiện ngập xì ke ma túy khiến gây bất ổn xã hội.
-Ma-lanh là thủ đoạn khôn ngoan lặt vặt để thủ lợi khiến nhân cách trở nên xấu xa. 
-Ma bùn là có hành vi xấu, lén lút giống như “ngụy quân tử”.
-Thiên Ma hay Ma Ba Tuần cai quản cõi trời Tha Hóa Tự Tại (tầng trời thứ sáu) không tin vào chánh pháp, chấp thủ tà kiến tự ngã và thường đoạn kiến sâu nặng, không muốn có người tu đắc đạo thoát khỏi luân hồi trong ba cõi. Ma Ba Tuần trong thế gian này có thể  hiểu là người hoặc giàu có, trí thức, có quyền thế nhưng không tin chính pháp, phỉ báng và ngăn cản người tu học. Ma Ba Tuần cho rằng sống chỉ để hưởng thụ và không cần hướng thượng và cứu giúp mọi người và không tin luân hồi, nhân quả.
-Ma nữ là thứ ma cuối cùng nguy hại không sao lường hết được. Thời đại văn minh điện tử ngày nay có cả triệu ma nữ gọi là “gái sexy”, “hot girl”, ăn mặc hở hang, dâm ô, đóng phim sex, chụp hình phô bày cả bộ phận sinh dục để  kiếm tiền. Mở bất cứ trang báo điện tử nào ra cũng đều thấy hàng loạt, hàng loạt ma nữ được quảng cáo nhiệt tình. Loại ma nữ này xuất hiện trong cả các đại hội Liên Hoan Điện Ảnh, trình diễn thời trang ăn mặc gần như trần truồng, được dùng để quảng cáo bán hàng, ngụy trang qua các dịch vụ đấm bóp, du lịch (sex tour), phòng trà, quán nhậu ôm, cà-phê ôm, quán rượu. Lại còn có cả ma nữ ăn mặc hở hang lái xe đua lượn trên đường phố trong những ngày hội, rồi tự chụp hình đưa lên mạng lưới toàn cầu cho người ta xem. Các loại ma nữ này náo loạn thanh niên, thiếu nữ, đại gia, các chịnh trị gia… đã đành mà còn hủy hoại cuộc đời của nhiều nhà tu hành. Dính vào ma nữ coi như sự nghiệp tiêu tan, tiếng xấu để đời. Thế nhưng ma nữ là loại ma hấp dẫn,  đàn ông ông, con trai ai cũng thích lao vào. Ma nữ là loại ma không có trí tuệ và không biết xấu hổ. Mục đích chính của nó là phô bày thân thể để mời gọi đàn ông. Ngay Đức Phật trước khi thành đạo còn bị ma nữ não hại, nhưng ngài vượt qua được.

             Viết về chuyện ma, bàn tán về ma là chuyện ngàn đời nhiều khi chỉ để hù dọa trẻ con, mua vui, câu độc giả hay trám chỗ trên mấy tờ báo. Là người học Phật chúng ta không sợ ma chết mà sợ ma sống. Chính ma sống làm não loạn và làm xấu con người mà ma nữ là trở ngại chính trên bước đường tu hành. Ngài A Nam tí nữa cũng chết vì ma nữ. Cho nên người tu hành, từng giây, từng phút phải cảnh giác với ma nữ. Ma nữ là hình ảnh nổi bật của hai chữ Ái-Dục.

Nói chung, ma không có thật. Và nếu có thật thì chẳng có gì đáng sợ. Nhưng nếu hiểu “ma” là chúa tể của dục vọng hay ham muốn của chính chúng ta….thì ma đó vô cùng đáng sợ, hãm hại chúng ta đã đành, mà còn hủy diệt luôn cả trái đất này.
Đào Văn Bình
(California ngày 10/1/2019)
 
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2020(Xem: 6639)
Tản mạn : Làm sao Chuyển hoá khổ đau ? "Khổ đau chỉ đến khi ta khởi lên ý niệm đó mà thôi ! " Nếu ai đó đã từng học được điều này thì mời các bạn cùng tôi ngâm vài vần thơ trước khi vào đề tài rất hữu ích cho thời đại công nghệ này bạn nhé ! Nhất là giới trẻ và trung niên ngày nay dù có học Phật Pháp hay đang nghiên cứu vài sách về tâm lý . Làm thế nào khổ đau được chuyển hoá ? Không lạm bàn nạn dịch với thiên tai Thẩm sâu nội tâm ... rơi lệ , thở dài Chuyện uất ức, bất mãn, thành công thất bại ! Suy cho kỹ ... Tâm phan duyên, hoang dại ! Khổ đau chỉ đến ... ý niệm khởi đó thôi Tự mình tiêu cực, sao lại phải Tôi!!! Nào tản mạn ... nuôi dưỡng được tâm thái tích cực !!! ( thơ Huệ Hương )
17/11/2020(Xem: 8028)
LỜI GIỚI THIỆU CỦA NI TRƯỞNG THƯỢNG NGUYÊN HẠ THANH Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Mô Thánh Tổ Đại Ái Đạo Kiều Đàm Di Mẫu Kính bạch chư Tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, quý Ni trưởng, Ni sư cùng chư Đại đức Tăng Ni, Kính thưa quý Thiện nam, Tín nữ xa gần, Thật là vinh dự cho chúng con/ chúng tôi hôm nay được viết những dòng giới thiệu này cho tuyển tập “Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ” (Sharing the Dharma - Vietnamese Buddhist Nuns in the United States) do Ni Sư Thích Nữ Giới Hương, Chùa Hương Sen, đứng ra biên soạn và xuất bản.
17/11/2020(Xem: 5787)
Nhân loại đã biết cách bay lên mặt trăng, tuy nhiên nhiều nơi trên địa cầu vẫn còn bị ràng buộc với những thói quen xưa cổ, trong đó một thành kiến khó rời bỏ là xem nhẹ phụ nữ. Hầu hết các tôn giáo cũng xem nhẹ phụ nữ. Riêng trong Phật Giáo, phụ nữ từ xưa vẫn có một vị trí đáng kính và bình đẳng trên đường học đạo, để tận cùng là thành tựu Niết Bàn. Khi vua Pasenadi nước Kosala không vui vì hoàng hậu Mallikà sinh một bé gái, Đức Phật trong Kinh SN 3.16 dạy vua rằng: "Này Nhân chủ, ở đời / Có một số thiếu nữ / Có thể tốt đẹp hơn / So sánh với con trai / Có trí tuệ, giới đức..." Hơn hai mươi thế kỷ sau, ý thức nữ quyền mới trở thành phong trào. Theo định nghĩa cô đọng và đơn giản, nữ quyền là niềm tin vào sự bình đẳng của nữ giới với nam giới về chính trị, kinh tế và văn hóa. Do vậy thường khi, nữ quyền gắn liền với dân quyền, vì bình quyền nam nữ dẫn tới ý thức bình quyền cho từng người dân, đặc biệt là nơi các dân tộc đang bị các nước thực dân thống trị, hay nơi các sắc tộc thiểu số
16/11/2020(Xem: 4804)
Vào ngày 8 tháng 11 vừa qua, Hội đồng Thống nhất Thiên Chúa giáo, Phật giáo và Ấn Độ giáo Bangldesh (Bangladesh Hindu Bouddha Christian Oikya Parishad; BHBCOP), đã tổ chức một chương trình tập hợp và biểu tình hàng loạt trên toàn quốc để phản đối các cuộc tấn công, đốt phá, tra tấn và giết hại người tôn giáo thiểu số tại Bangldesh. Là một phần của cuộc biểu tình, họ đã thành lập các chuỗi người và các cuộc biểu tình từ 10 giờ sáng đến 12 giờ trưa tại các giao lộ chính của các trụ sở cơ quan chính quyền cấp quận, huyện, thành phố và tỉnh trên khắp đất nước, bao gồm cả giao lộ Shahbagh, Dhaka và giao lộ ngã tư New Market, Chittagong.
16/11/2020(Xem: 5477)
Vào giữa thế kỷ thứ mười bảy, Đức Đệ Ngũ Đạt Lai Lạt Ma đã nhấn mạnh tầm quan trọng như thế nào để việc phân tích không trở thành một bài học thuộc lòng như vẹt mà phải là sống động. Khi chúng ta tìm kiếm cho một “cái tôi” tồn tại cụ thể như vậy mà không thể tìm kiếm được nó hoặc là cùng giống hay khác biệt với tâm thức và thân thể, điều thiết yếu là phải tìm kiếm cùng khắp; bằng khác đi chúng ta sẽ không cảm thấy tác động của việc không tìm thấy nó. Đức Đệ Ngũ Đạt Lai Lạt Ma đã viết:
15/11/2020(Xem: 6064)
Mười bốn câu trích dẫn lời của Đức Phật dưới đây được chọn trong số 34 câu đã được đăng tải trên trang mạng của báo Le Monde, một tổ hợp báo chí uy tín và lâu đời của nước Pháp. Một số câu được trích nguyên văn từ các bài kinh, trong trường hợp này nguồn gốc của các câu trích dẫn đó sẽ được ghi chú rõ ràng, trái lại các câu đã được rút gọn, chỉ giữ lại ý chính, sẽ không có chú thích về nguồn gốc. Ngoài ra trong bài 1 trước đây, người chuyển ngữ đã mạn phép ghi chú dài dòng với hy vọng có thể giúp một vài độc giả theo dõi dễ dàng hơn chăng các lời trích dẫn đôi khi khá cô đọng hoặc trừu tượng? Dầu sao thiết nghĩ sự suy tư và phán đoán là quyền hạn ưu tiên và thiêng liêng của người đọc, vì lý do đó kể từ bài 2 này, người chuyển ngữ sẽ mạn phép chỉ xin ghi chú thêm một vài suy nghĩ riêng của mình khi cảm thấy cần thiết. Độc giả có thể xem bản gốc tiếng Pháp của các câu trích dẫn này trên trang mạng của báo Le Monde: https://dicocitations.lemonde.fr/auteur/616/Bouddh
14/11/2020(Xem: 6461)
Kính mạn phép được thay đổi lại lời của một bài hát mà âm điệu đã thấm sâu vào huyết quản tôi từ bao giờ và hôm nay một lần nữa lại vang vang ...nửa như kích thích sự hưng phấn trong tôi nửa như khuyến khích tôi phải trình bày vì sao tôi thấy ra được điều này " Một niềm an vui hạnh phúc hỷ lạc thật sự có mặt và có thật trong mỗi con người chúng ta "
13/11/2020(Xem: 5164)
Từ khi có Lục tổ Huệ Năng đưa ra lý thuyết chúng sanh có sẳn Tánh Giác gọi là Phật Tánh trong người nhưng vì bị Ý thức che mờ đi nên cần ngồi thiền vén lớp ý thức này ra thì Phật tánh sẽ hiện ra thành Phật nên không cần kinh luật bất lập văn tự mà tu. Rất nhiều người bình dân phương nam đi theo một thời đông đảo. Câu hỏi được đặt ra là tánh giác này có trước hay sau ý thức? Thế nên mới đưa ra kế tiếp là giác ngộ rồi mới khởi tu tức là học kinh Phật. Vì Giác ngộ đến Giải thoát sinh tử là một chặng đường rất dài có khi rất nhiều kiếp cần trãi nghiệm. Vậy chúng ta nghiên cứu giác ngộ trước.
13/11/2020(Xem: 4813)
Nhân khi đọc bài Thành Tựu Niết bàn của Cư sỹ Nguyên giác Phan Tấn Hải, chúng tôi xin phép kết hợp với thuyết big bang của Stephen Hawking và tiến trình giác ngộ của Đức Phật, và sự sống và chết theo Phật giáo để luận bàn về Niết bàn, giải đáp thắc mắc đức Phật chết rồi đi về đâu? Đây chỉ là khởi niệm mới lạ, biết đâu tương lai sẽ có người chứng minh được.
13/11/2020(Xem: 4759)
Phương tây từ thế kỷ thứ 18 đã từng phát huy cái ngã cái tôi của con người như “tôi suy tư là tôi hiện hữu”. Từ đó đến nay người Phuơng tây phát triển cái tôi, đưa đến tôn trọng cái tính riêng biệt cũa cái tôi từ triết lý đến luật pháp. Nhưng đạo phật lại diệt ngã thì làm sao mà hoằng pháp cho người Phương tây tu theo phật được? Làm sao giải thích được ý nghĩa diệt ngã của đức Phật? Vậy ta có thể giải thích là không phải ngã? Khi người ngồi thiền định dưới cội bồ đề 49 ngày, người đạt giác ngộ và đập tay xuống đất mà nói ta đạt được chánh đẵng chánh giác do trời chứng , ta chứng và đất chứng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]