Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sống Chung Với Chướng Duyên Nghịch Cảnh

11/01/201911:39(Xem: 6584)
Sống Chung Với Chướng Duyên Nghịch Cảnh

songchung2_vhưu
SỐNG CHUNG VỚI CHƯỚNG DUYÊN NGHỊCH CẢNH

Sống chung với nghịch cảnh, đương đầu với chướng duyên, gẫm ra đó cũng chính là một pháp môn tu trong tám vạn bốn ngàn pháp môn của Đức Phật truyền dạy. Người đã tu học theo Pháp Phật thì chẳng còn lạ gì chuyện “sống chung” và “đương đầu” này! Nhờ chướng duyên mà ta mới thấm thía được lý nhân quả. Nhờ nghịch cảnh mà ta mới nhận thấy rõ vô thường. Giữa cuộc đời hỗn độn nhiêu khê, bao chướng duyên và nghịch cảnh đến với người ta từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội, chúng nằm trong “oán tắng hội khổ” mà ta thường thấy biết qua thiên hình vạn trạng: không thích mà phải gặp, không ưa mà phải gần, không hợp mà phải nhận lấy, không yêu thương luyến mến mà phải đội chung một mái nhà, ghét mà phải đụng đầu hằng ngày khi vào khi ra, “kỵ” mà phải kề cận sớm hôm trưa tối… Kìa xem, một xóm dân cư hiền hòa vắng lặng bao năm, cho đến một ngày chợt có vài quán karaoke tiếp nối nhau xuất hiện, nằm xen giữa các nhà dân có nhiều cụ già và con trẻ cần sự yên tĩnh, và rồi nhạc mở xập xình ngày đêm, khách tới khách lui, xe ra xe vào dập dìu nhộn nhịp… 

Nọ thấy, một ngôi trường lâu năm được tồn tại với khung cảnh êm ả và không khí trong lành, đùng một cái, bên kia đường hình thành một dãy chung cư ba tầng cao ráo mới toanh, các hộ ở tầng trệt tận dụng mặt tiền để đua nhau khai trương nào là quán nhậu, quán cơm, quán Interrnet… từ sáng đến tối người ra kẻ vào tấp nập, xe đến xe đi rộn ràng, lại cứ vang lên “dzô dzô… trăm phần trăm” om sòm ỏm tỏi… Người ta buôn bán làm ăn hợp pháp, có giấy phép kinh doanh hẳn hoi, thực hiện nghĩa vụ thuế má đầy đủ đàng hoàng, thì lấy gì mà kiện cáo với khiếu nại, đành phải chịu sống chung với ồn ào nhốn nháo thôi! 

Xin kể thêm một “chướng duyên nghịch cảnh” đã và vẫn đang tiếp tục diễn ra: có vị Tỳ kheo nọ, một môn đồ ưu tú thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, đã từ Phan Rang ra đến Nha Trang để hoằng pháp lợi sanh. Thầy đã thận trọng kỹ lưỡng mới tìm ra một nơi yên ắng tĩnh lặng, không khí trong lành thoáng đãng, để rồi lặng lẽ lập một thiền thất ở xã Vĩnh Trung, cách trung tâm thành phố Nha Trang khoảng 10 cây số... Tam Bảo đã hiển lộ sáng soi, bà con trong vùng rất vui mừng, kéo về xin quy y, thọ giáo rất đông, cuộc sống ở đây thay đổi thấy rõ. Thiền thất trụ được qua năm năm, tu sửa dần dần trở nên khang trang để hằng ngày đón Phật tử về tu thiền, sám hối sáu căn, nghe pháp. Đạo tràng ngày càng lớn mạnh, một viễn cảnh an vui tươi đẹp hiện ra: thiền thất sẽ trở thành một ngôi thiền tự. Nhưng, được vài năm, than ôi… khu vườn xoài rộng dài bên kia đường ngay phía trước Thiền thất, bỗng hóa thành một quán… “Cà Phê Vườn”, sáng trưa chiều tối nhạc mở hết âm lượng, toàn là nhạc rock với rap, pop với disco, ca từ thì hết yêu đương lại hận hờn, hết hôn hít lại ái ân… Phía sau quán “Cà Phê Vườn”, cách 5 mét lại thấy mọc thêm một “Nhà Nghỉ” (chi vậy ta?), khách đa số là người ở trung tâm phố thị tìm đến với khung cảnh lạ, thơ mộng, kín đáo… Chủ nhân là dân thành phố tìm đường phát triển kinh tế, được cấp giấy phép kinh doanh đầy đủ, hợp lệ, hỏi ai có quyền ngăn cản cấm đoán? Thiền thất, đạo tràng vậy là phải chịu bao phen động tâm, toát mồ hôi lạnh, “sốc” quá đi chứ!

Sáng chủ nhật hằng tuần, thiền sinh từ khắp nơi kéo về để “tham thiền nhập định” trên chánh điện, nhạc bên kia đường cứ oang oang thình thịch dộng vào tai, khủng bố tinh thần, quấy rối lục căn, thử hỏi thánh thần nào“thiền” nổi? Vào những giây phút cử hành lễ lớn, Thầy đang niêm hương chú nguyện, cả đạo tràng oai nghi chỉnh tề nhiếp tâm hướng về Tam Bảo, thì bên kia đường nhạc trỗi lên “nhí nhố ướt át” vô tội vạ, hỏi còn gì là thanh tịnh trang nghiêm? Một số “nam đệ tử tục gia” của Thầy là dân địa phương có ý qua quán “quậy” lại, Thầy nghiêm khắc “cấm vọng động”. Một số “cao niên thiền sinh” cũng là dân sống lâu đời ở thôn, cũng xin qua nói chuyện phải quấy, Thầy nghiêm nghị ngăn cản. Khi tôi có ý định viết một bài báo gửi đến trang mục “Ý kiến người dân” của báo tỉnh nhà, dò ý Thầy thử, Thầy nhất quyết không tán thành. Thầy không muốn “động chạm” đến việc kinh doanh buôn bán của người ta, cũng không muốn người ta hiểu lầm là Thầy đã đứng ra chỉ bảo điều hành chúng đệ tử phản ứng, và Thầy chấp nhận hoàn cảnh một cách thản nhiên. Sau đó, Thầy có đăng đàn thuyết một bài pháp về “Sống chung với nghịch cảnh” cho đại chúng nghe. Một năm sau, có dịp hầu thăm Thầy, được Thầy cho hay là “người ta mở nhạc nhỏ bớt rồi, quán cũng đã được xây tường gạch cao lên rồi”, nghe cũng mừng cho Thầy… một tí. Bẳng đi một thời gian nữa, tôi lại được dịp lên thăm Thiền thất của Thầy, được nghe một thông tin đầy lạc quan từ bà con Phật tử: chủ quán vỡ nợ, quán sang nhượng cho chủ khác, và người chủ mới là một Phật tử thuần thành đ quản lý và điều hành cái quán cà phê cùng nhà nghỉ đi vào “im lìm lặng lẽ”. Chốn thiền môn được tôn trọng đến mức cao nhất. Thật là vui.

Qua vài ba “chướng duyên nghịch cảnh” kể thí dụ trên, một câu hỏi được đặt ra: các cơ quan chức năng, những người có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh có cân nhắc kỹ lưỡng nhìn trước ngó sau, có xét duyệt phải trái tiền hậu, trước khi đặt bút ký tên và mạnh tay đóng dấu hay không? Chính những tờ giấy phép kinh doanh “giấy trắng- mực đen- con dấu đỏ” được cấp phát một cách dễ dãi, thiếu suy tính, đã tạo nên những “chướng duyên nghịch cảnh” cho bao người khác phải lãnh chịu!

Suy cho cùng, đã sống trên cõi đời đầy phiền não hiện hành và phiền não ô nhiễm, chúng ta đành phải chấp nhận sống chung một cách dũng cảm với bao nghịch cảnh chướng duyên, bởi chúng ta không thể bỏ chạy, không thể trốn nấp né tránh quy luật nhân quả thiên biến vạn hóa từng sát- na trong cuộc sống hằng ngày. Tùy duyên ứng biến, vận dụng pháp Phật làm vũ khí để nghinh ma đón quái, để hòa nhập hít thở và lặn hụp cùng với “bát phong” (tám ngọn gió thường tình của thế gian không ngừng thổi, gồm có bốn phước lành và bốn bất trắc, chia thành bốn cặp: một là hưng thịnh, lợi lộc và suy sụp, điêu tàn. Hai là hủy báng, gièm pha và danh dự, tiếng thơm. Ba là xưng dương, tán tụng và cơ bài, chỉ trích. Bốn là phiền não, khổ đau và an lạc, hạnh phúc). Pháp khí của nhà Phật không phải là những thứ vũ khí để cho chúng ta cầm nắm trên tay lăm lăm giữa ma quân, hay giứ giứ nhá nhá trước bát phong lục trần, mà phải là pháp khí luôn được đặt nằm ở trong Tâm ta. Nằm ở trong Tâm, tức Tâm niệm. Vậy thì chúng ta còn đắn đo chờ đợi gì nữa mà không nhớ nghĩ đến “Luận Bảo Vương Tam Muội” với “Mười điều tâm niệm” được xem là “tuyệt chiêu xuất thế”?

Người tu hơn người không tu ở cách hành xử đối đãi, chỉ cần nhớ nghĩ và vận dụng ngay đến “Pháp khí sẵn có trong Tâm”, là cuộc đương đầu với nghịch chướng sẽ được giải quyết dứt điểm nhanh chóng, và phần chiến thắng chắc chắn sẽ thuộc về những ai vững tin vào Pháp Phật:  “Lấy bệnh khổ làm thuốc hay. Lấy hoạn nạn làm giải thoát. Lấy chướng nạn làm thú vị. Lấy ma quân làm pháp lữ. Lấy khó khăn làm an lạc. Lấy tệ bạc làm tư lương. Lấy người chống đối làm nơi giao du. Xem thi ân là đôi dép bỏ. Lấy sự xả lợi làm phú quí. Lấy oan ức làm cửa ngõ hành đạo”. 

Thuyết suông thì quá dễ, hành mới cực khó. Phải chăng vị Tỳ kheo ở Thiền thất (nay đã trở thành ngôi Thiền tự trang nghiêm), được nhắc đến ở phần trên, đã biến chuyển được chướng duyên nghịch cảnh thành tịnh cảnh thắng duyên, không phải bằng sự quy lụy bợ đỡ vì hèn nhát nhu nhược, mà bằng cái Tâm nhẫn nhục, độ lượng, vô ngại tự tại đầy uy dũng có từ giáo pháp nhà Phật, nên thấy việc “sống chung và đương đầu” cũng… chẳng có gì ghê gớm? Chắc vậy rồi!

Cư sĩ Vĩnh Hữu
songchung1_vhưu
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4935)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5083)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4433)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4102)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4693)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4154)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3600)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6881)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6956)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5052)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]