Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giáo dục Việt Nam ở đâu trong cuộc Cách mạng Công nghiêp lần Thứ tư

08/01/201920:57(Xem: 7995)
Giáo dục Việt Nam ở đâu trong cuộc Cách mạng Công nghiêp lần Thứ tư

Giáo dục Việt Nam ở đâu trong cuộc Cách mạng Công nghiêp lần Thứ tư

  

Nguyễn Xuân Thu (tháng 3/2018)

 cach-mang-cong-nghiep-4

 

 

Trong thời gian gần đây trên các phương tiện truyền thông đại chúng và mạng xã hội đã bàn tán xôn xao đến cuộc Cách mạng Công nghiệp lần Thứ tư (CC4) và đưa ra nhiều ý kiến là Việt Nam cần phải hành động để đón đầu cuộc CC41.

 

Trước những thách thức mới ấy, trong lãnh vực giáo dục và đào tạo, Việt Nam cần có những kiến thức và kỹ năng gì để có thể đáp ứng nhu cầu lao động trong thời kỳ CC4?

 

 

 I. Cuộc Cách mạng Công nghiệp là gì?

 

Đa số các chính phủ tại các nước phát triển và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp thừa nhận rằng trong lịch sử loài người cho đến nay có một số cuộc Cách mạng Công nghiệp (CC). Các cuộc Cách mạng Công nghiệp ấy ví như là các mặt cắt trong một hồ nước công nghiệp.

 

Mặt cắt dưới đáy hồ là cuộc Cách mạng Công nghiệp CC1, biểu hiện bởi hơi nước và năng lượng nước, được sử dụng trong công nghiệp (sản xuất hóa chất, thép) để thay thế lao động thủ công. Cuộc CC1 này bắt đầu từ năm 1760 đến khoảng hết nửa đầu của thế kỷ 19 (khoảng 130 năm).

 

Mặt cắt kế đến là Cách mạng Công nghiệp CC2. Đó là sự ra đời của điện và sử dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. Sản xuất đầu máy chạy bằng hơi nước, hệ thống dây chuyền sản xuật công nghiệp, công nghệ dệt, xe lửa, khí đốt, dầu khí, hóa chất, phân bón, viễn thông, luyện kim, công nghệ tàu thủy, xe đạp, ôtô…). Cuộc CC2 này kéo dài từ nửa sau của thế kỷ 19 đến những năm đầu của thế kỷ 20.

 

Mặt cắt thứ ba là Cách mạng Công nghiệp CC3. Đó là sự ra đời của điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ Internet, những đại công ty, tạo ra công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động. Riêng ba công ty Royal Dutch, Exxon Mobil, BP có tổng thu là 22,5 ngàn tỷ đô la Mỹ trên số 62 ngàn tỷ GDP trên toàn thế giới. Biểu tượng của CC3 còn là Thung lũng Silicon, là Detroit, Google, Facebook… Thời kỳ này kéo dài từ thập kỷ 1960s của thế kỷ 20 đến tận ngày nay.

 

Mặt cắt trên cùng của mặt hồ công nghiệp là cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 (CC4), gồm tất cả thành tựu của cả ba cuộc cách mạng CC1, CC2 và CC3 hòa quyện lẫn nhau, biểu hiện bằng (1) kỹ thuật số (trí tuệ nhân tạo, vạn vật kết nối Internet, dữ liệu lớn), (2) công nghệ sinh học (trong nông nghiệp, thủy sản, chế biến thực phẩm, y dược, năng lượng tái tạo) và (3) vật lý (với rô-bốt thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, vật liệu mới, công nghệ nano)2. Cuộc CC4 này đang phát triển như vũ bão, phát sinh hàng triệu công việc mới ra đời.

 

Trừ ba cuộc Cách mạng Công nghiệp CC1, CC2 và CC3 đã được chính thức thừa nhận. Riêng cuộc Cách mạng Công nghiệp lần Thứ tư mới được Giáo sư Klaus Schwab đưa ra vài năm gần đây tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Đức năm 2013 cho nên còn có nhiều người chưa đồng ý. Có người cho rằng CC4 cũng chỉ là CC2 mở rộng. Còn một số nhà nghiên cứu khác thì cho CC4 chỉ là đỉnh cao của CC3 bởi vì CC4 không có một công nghệ nào mới lạ.

 

Dù có CC4 hay không, chúng ta vẫn phải mặc định rằng với sự phát triển khoa học và công nghệ ngày nay, với sự ra đời hàng nhiều triệu công ty vừa và nhỏ, mô hình kinh tế thế giới thay đổi, hệ thống kinh doanh thay đổi, người lao động phải được chuẩn bị những kỹ năng và kiến thức cần thiết cho cuộc CC43.

 

 

II. MOOCs: Khuynh hướng học tập trên thế giới trong những năm gần đây

 

Theo thống kê của Những Khóa học Trưc tuyến Mở (MOOCs = Massive Open Online Courses)4, trong năm 2011 có từ 16 đến 18 triệu học viên tham gia các lớp học đại trà trực tuyến mở. Chỉ gần 4 năm sau, năm 2015 thì số học viên này lên đến 35 triệu, ghi danh học trong 4200 khóa học trực tuyến, tại trên 500 cơ sở đào tạo, cung cấp từ các chứng chỉ đến bậc đại học, trên đại học; một số khóa học được các trường cấp chứng chỉ (phải trả tiền), một số học viên học không muốn lấy chứng chỉ.

 

Mỗi loại chứng chỉ/văn bằng đều tương ứng với một bậc (level) và có mã số nghề nghiệp (code) khác nhau và khi đi làm thu nhập cũng khác nhau tùy theo ngành nghề và kinh nghiệm. Ba cơ sở có mở nhiều khóa học nhất hiện nay là Coursera với 3073 khóa học chiếm 35,6% trên toàn thị trường, edX có 1887 khóa học chiếm 18,1% và FutureLearn 718 khóa học với 5,68%. Các khóa học được dạy bằng 16 ngôn ngữ. Có 6690 khóa học được sử dụng bằng tiếng Anh, 671 khóa học tiếng Spanish, 331 khóa học tiếng Pháp, 239 khóa học tiếng Trung, 67 khóa học tiếng Nhật Bản, 6 khóa học tiếng Hàn. Không có thứ tiếng nước nào thuộc Vùng Đông Nam Á.

 

Có 11 ngành học có nhiều học viên học nhất trong hệ thống của MOOCs như sau: Kinh doanh và quản lý (16,8%), Khoa học (11.3%), Khoa học xã hội (10,8%), Khoa học máy tính (9,74%), Nhân văn (9,41%), Giáo dục và Sư phạm (9,36%), Sức khỏe và Y tế (8,27%), Lập trình (7.44%), Nghệ thuật và Thiết kế (6,73%), Tiếng Anh (6,11%), Toán (4,09%). Ngoài các ngành trên, hệ thống cơ sở MOOCs có trên 100 chuyên ngành trong đó có rất nhiều khóa học mới phục vụ nhu cầu của cuộc CC4, hoàn toàn chưa có tại nhiều nước đang phát triển.

 

Tại các nước phát triển có 4 bậc nghề nghiệp, bậc cao nhất là nhóm lãnh đạo, hoặc quản lý cao cấp, là những người nắm vững cả lý thuyết lẫn kinh nghiệm vượt trội, nếu trong khung trình độ của Úc, thuộc trình độ bậc 9 hoặc 105. Bậc thứ hai là chuyên viên có cả lý thuyết lẫn kỹ năng, có kinh nghiệm làm việc nhóm, năng động, sáng tạo, theo khung của Úc là bậc từ 6 đến 7. Bậc thứ ba là những kỹ thuật viên, những người làm thương mại, theo Úc là bậc từ 3 đến 6 và bậc dưới cùng là những người lao động phổ thông, tương đương với khung trình độ bậc 1 đến 2 hoặc 3. Qua ba cuộc khảo sát, 2006, 2009 và 2013 tại Úc và New Zealand, ba bậc trên (lãnh đạo, quản lý, chuyên gia) có số ngành nghề không thay đổi. Trong lúc đó số ngành nghề ở bậc thấp nhất (thuộc loại phổ thông hoặc bán chuyên môn) thì gia tăng rất đáng kể, từ 998 ngành nghề năm 2006 lến 1014 năm 2009 và có 1023 ngành nghề trong năm 20136. Sự gia tăng mạnh ngành nghề lao động phổ thông tại Úc và New Zealand ở mức ngành nghề phổ thông rất giống với sự phát triển ngành nghề trong buổi ban đầu của thời CC4.

 

Theo khảo sát của các cơ sở giáo dục trong nhóm MOOCs, nhằm đáp ứng sự phát triển nhu cầu nghề nghiệp trong cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, số khóa học mới và số học viên sẽ tăng mạnh trong những năm tới. Theo dự đoán, phải mất ít nhất gần hai thập kỷ nữa mới thấy rõ diện mạo của cuộc Các mạng Công nghiệp 4.0.

 

 

 

III. Những kỹ năng và kiến thức nào cần cho nền Công nghiệp Việt Nam?

 

Hiện nay chưa có số liệu thống kê nào cho thấy Việt Nam đang ở vào giai đoạn nào trong các cuộc cách mạng công nghiệp CC2, CC3 hay CC4 và nếu có thì nội dung công nghiệp của Việt Nam chiếm bao nhiêu phần trăm.

 

Một số người tự hào rằng Việt Nam đang có một số công ty/tập đoàn như Vietjet Air, Zalo, Zalo Shop, Zalo Pay, FPT, Viettel… đã vươn được ra nước ngoài. Với khoảng 400 ngàn doanh nghiệp Việt Nam hiện nay có được khoảng dưới 10 doanh nghiệp/tập đoàn vươn được ra nước ngoài tuy ít ỏi nhưng cũng là điều rất an ủi.

 

Tuy nhiên, chúng ta cũng cần biết thêm là có bao nhiêu công ty ấy thuộc khu vực tư nhân, nếu là công ty cổ phần thì phía nhà nước chiếm bao nhiêu phần trăm và các nước có các công ty của Việt Nam vươn tới ấy nằm trong cuộc Cách mạng Công nghiêp nào? Nội dung kinh doanh của các công ty ấy nằm trong cuộc cách mạng 3.0 hay 4.0?

 

Khi có những đáp số ấy chúng ta mới biệt được vị trí công nghiệp của Việt Nam đang nằm ở đâu để từ đó mới biết được nhu cầu lao động đang cần ở loại nào lúc ấy mới có kế hoạch đào tạo đúng hướng. Việt Nam là nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp chúng ta không thể phí phạm đào tạo những ngành nghề (kỹ năng và kiến thức) xã hội thật sự chưa cần đến.

 

Tuy nhiên, hiện nay các công ty/tập đoàn có tiềm năng trở thành nhóm doanh nghiệp tạm gọi thuộc CC4, khách quan mà nói, vẫn còn một số mặt thật sự cần điều chỉnh và cần được ưu tiên kiện toàn. Đó là văn hóa doanh nghiệp. Phòng vệ sinh trên máy bay luôn cần giữ sạch sẻ như trên các máy bay của các nước phát triển. Khuôn mặt của các tiếp viên cần có thêm nụ cười thân thiện và rạng rỡ. Công trường làm việc cần sự ngăn nắp và sạch sẻ sau giờ làm việc. Cách thức đối xử với bất cứ ai và ở bất cứ đâu luôn phải là tiêu chuẩn của một thành viên trong một doanh nghiệp của thời CC4. Không vứt rác bừa bãi, không khạc nhổ trên đường. Không chen lấn, không gây náo động nơi công cộng. Luôn có chuẩn mực với giờ giấc và với mọi người. Doanh nhân của cuộc CC4 không thể giống với doanh nhân của thời CC1, CC2. Không xem thường những bài học về văn hóa đơn giản. Những nét văn hóa ấy tuy có vẻ tầm thường, nhưng nếu được miệt mài nuôi dưỡng, sẽ có hiệu ứng rất cao.

 

 

 

IV. Hướng đào tạo Việt Nam đang cần?


 

Muốn phục vụ đắc lực sự phát triển đất nước trong giai đoạn cuộc CC4, trước hết phải củng cố thật vững chắc tất cả các mọi loại cơ sở giáo dục đào tạo hiện nay (gồm các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và các trường đại học), bất luận công lập hay tư thục, vì tất cả mọi cơ sở giáo dục đào tạo đều có nhiệm vụ cốt lõi chung là đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

 

4.1 Các cơ sở giáo dục đào tạo truyền thống của Việt Nam có những mặt cần hoàn thiện:

 

Trách nhiệm của Bộ Giáo dục Đào tạo là cơ quan (1) xây dựng chính sách giáo dục đào tạo kể cả việc đưa ra sáng kiến nhằm khuyến khích các cơ sở GDĐT phát triển tối đa tiềm năng của mình, (2) cung cấp ngân sách hỗ trợ các cơ sở GDĐT để họ thi hành các chính sách và (3) buộc các cơ sở này phải giải trình đúng mức (trách nhiệm pháp lý, Bộ GDĐT). Bộ GDĐT phải tự hào về nhiệm vụ xây dựng chính sách phát triển giáo dục của mình. Vai trò của Bộ sẽ bị lu mờ nếu Bộ còn tiếp tục làm công việc quản lý của các trường.

 

Quyền tự chủ của các cơ sở GDĐT hiện nay còn quá yếu. Bộ GDĐT chưa có văn bản thống nhất việc tự chủ các cơ sở GDĐT. Bộ yêu cầu các trường tự chủ, tự quản nhưng trên thực tế thì vẫn nắm giữ. Phải có chính sách mạnh dạn khuyến khích các cơ sở GDĐT tự chủ và phải ấn định khung thời gian hoàn tất. Không thể để kéo dài năm này qua năm khác. Công tác thăng thưởng, bbổ nhiệm, miễn nghiệm, kỷ luật giáo viên, nhân viên là nhiệm vụ của mỗi trường. Chính phủ không nên phí ngân sách trong việc duy trì Ủy ban Học hàm học vị quốc gia.

 

Kiểm định chất lượng rất cần thiết để có chất lượng trong hệ thống giáo dục quốc dân.

 

Kiểm định chất lượng theo luật là bắt buộc. Dựa trên luật để làm việc. Kiểm định chất lượng, theo luật, phải là một hoạt động giúp các cơ sở GDĐT cung cấp các chương trình có chất lượng nhằm phục vụ cộng đồng, xã hội. Như thế kiểm định chất lượng không phải là thanh tra. Hiện nay có nhiều dư luận cho là sự hình thành các trung tâm kiểm định chất lượng đại học tại Việt Nam và các hoạt động kiểm định chất lượng chưa ổn, chưa tạo được một văn hóa của những người hợp tác giúp cho giáo dục Việt Nam thật sự phát triển. Mục tiêu và triết lý về Kiểm định chất lượng của Úc có thể là một trong những khuôn mẫu rất thích hợp cho giáo dục Việt Nam.7

 

Bảng Tiêu chuẩn và xếp loại nghề nghiệp của Việt Nam được soạn thảo trước khi gia nhập Tổ chức Thương mai Thế giới (WTO) năm 2007 (WTO Standard and Classification of Occupations)8 chưa được cập nhật đúng mức, nhiều ngành nghề mới xuất hiện từ 10 năm nay còn bị bỏ sót, ví dụ như các ngành nghề liên quan đến hậu cần (logistics), bến bãi, chuổi cung ứng vật tư, nhân viên xã hội…

 

Xây dựng các ngành học, môn học mới có chất lượng mà xã hội đang cần. Hiện nay còn có nhiều chương trình học lỗi thời mặc dù cuối năm 2016 Thủ tướng Việt Nam đã ban hành hai Quyết định9 rất quan trọng liên quan đến giáo dục đào tạo, gồm giáo dục nghề nghiệp thuộc Bộ LĐTBXH và giáo dục đào tạo thuộc Bộ GDĐT.

 

Khung Cơ cấu hệ thống Giáo dục Quốc dân cho ta biết ở độ tuổi nào phải theo học bậc nào, còn Khung Trình độ Quốc gia Việt Nam quy định nguồn tri thức và khối lượng kỹ năng cần thiết cho mỗi môn học, mỗi chương trình học.

 

Lấy một ví dụ cụ thể để làm rõ hơn về nội hàm của một chương trình đào tạo, một sinh viên Úc học chương trình cử nhân kinh doanh tại Úc. Ba năm học gồm 6 học kỳ, mỗi học kỳ học 4 môn học; tổng cộng có 24 môn. Mỗi môn học người sinh viên bắt buộc đọc tối thiểu 4 hoặc 5 quyển sách dày chuyên ngành, nhiều bài báo, thông tin liên quan trên Internet. Riêng số sách phải đọc trong 3 năm là 120 quyển sách trung bình 500 trang mỗi quyển, chưa kể đến làm 2 bài thi mỗi học kỳ, viết một bài tiểu luận trung bình khoảng 4 đến 6 trang A 4. Đó là khối lượng tri thức mà một sinh viên học ở trong trường học Úc phải đạt được. Còn các kỹ năng bao gồm viết, nói, thuyết trình, giao tiếp với bạn bè, nhọc nhóm, thảo luận nhóm, tích cực tham gia vào các tranh luận, tham gia các hoạt động cộng đồng, các chương trình từ thiện… Khi áp dụng nguồn tri thức lý thuyết thu thập được vào thực tế thì người sinh viên Úc cũng vượt xa nhiều sinh viên Việt Nam. Do đó, nếu hai người cùng nộp hồ sơ xin một việc làm nào đó thì chắc chắn người sinh viên Úc có nhiều cơ hội thành công hơn là học sinh Việt Nam. Khung trình độ quốc gia Việt Nam không có giá trị gì cả nếu trường học Việt Nam không tìm cách cho nội hàm lý thuyết và thực hành vào trong chương trình học tập của sinh viên.

 

4.2 Vai trò của hệ thống giáo dục đào tạo truyền thống trong kỷ nguyên CC4

 

Không có các đại học của kỷ nguyên CC4 mà chỉ có những cơ sở GDĐT phục vụ cho cuộc CC4. Các trường đại học truyền thống ví như một cột trụ giúp kích hoạt các cuộc Cách mạng Công nghiệp từ 1.0, 2.0, 3.0 và hiện nay là 4.0. Chính những trường đại học giúp cho các đối tác giáo dục đào tạo như MOOSc phát triển mọi mặt và liên tục. Vậy các trường đại học và đối tác đào tạo hợp tác với nhau trên những lãnh vực nào?

 

Tổ chức các Khóa học Trực tuyến Mở (MOOCs), nhằm đáp ứng nhu cầu nhân sự khổng lồ cho cuộc CC4, thường mở các lớp học ngắn (micro courses) hơn các chương trình trong các trường đại học truyền thống. Tâm lý quần chúng không mấy tin tưởng (trust) vào chất lượng đào tạo của MOOCs là điều bất cập nhất của các khóa học đại tràng trực tuyến mở hiện nay. Trong trường hợp này, các trường đại học truyền thống có thể giúp kiểm định chất lượng cho các cơ sở MOOCs để MOOCs có thể đáp ứng được nhu cầu thị trường lao động trên thế giới.

 

Về phạm vi hoạt động của CC4, dựa trên cách mạng số, các lớp trực tuyến cho đến nay tuy chỉ mở ở khung trình độ cao nhất đến bậc Thạc sĩ và thường đào tạo trong những ngành nghề như kinh doanh, hệ thống quản lý, marketing, thiết kế, du lịch, khách sạn, công nghệ thông tin, môi trường và ít nghiêng về các công nghiệp chế tạo, sản xuất. Đối với những ngành học như chế tạo, sản xuất có thể trong tương lai gần, với sự phát triển của công nghệ 3D, hy vọng các trường MOOCs có thể cùng các trường đại học truyền thống mở thêm các ngành công nghiệp nặng về khoa học và công nghệ chế tạo.

 

Sự hợp tác giữa các trường đại học truyền thống với các đối tác MOOCs sẽ làm thay đổi tận cùng gốc rể xã hội và con người, thay đổi từ mục đích làm việc đến cách thức thực hiện và thay đổi chính cả con người.

1 Bài đăng trên báo VN Express ngày 18/04/2017. Đường link https://vnexpress.net/projects/cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu-la-gi-3571618/index.html

 

Klaus Schwab, sáng lập viên và chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế giới (The World Economic Forum), một tổ chức quốc tế độc lập, theo quy chế phi lợi nhuận (năm 1971), nhằm tạo cơ hội cho các nhà lãnh đạo thế giới chia sẻ nhửng vấn đề kinh tế, chính trị, hàn lâm, trụ sở chính đặt tại Geneva.

 

3 Các ngành nghề mới trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Xem https://www.i-scoop.eu/industry-4-0/

 

Bằng con số: MOOCs năm 2015 (By the Numbers: MOOCs in 2015). Các lớp học đại trà trực tuyến mở MOOC. Đường link https://www.class-central.com/report/moocs-2015-stats/

 

5 Úc là một trong những nước đã xây dựng Khung trình độ Quốc gia (Australian Qualifications Framework) từ năm 1994, hoàn chỉnh năm 2000 và từ đó phổ biến rộng rãi trên thế giới. Khung có 10 bậc trong đó 6 bậc liên quan đến giáo dục nghề nghiệp và 4 bậc thuộc bậc giáo dục đại học. Websire: https://www.aqf.edu.au

 

6  Bảng Thống kê Úc Tiêu chí và Phân loại Nghề nghiệp Úc và New Zealand (Australia and New Zealand Standard and Classification of Occupations). Có 4 bậc. Số bậc từ 1, 2, và 3 không thay đổi số lượng ngành nghề trong 6 năm qua. Riêng trong loại ngành nghề bán chuyên môn và phổ thông (thấp nhất) từ năm 2006 có 998 ngành nghề nhỏ đến năm 2013 số ngành nghề này lên đến con số 1023.

 

Tổ chức Tiêu chí và Chất lượng Giáo dục Đại học Úc (Tertiary Education Quality and Standards Agency).

 Nhiệm vụ là xây dựng các tiêu chí về chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. https://www.teqsa.gov.au/

8 Bảng Tiêu chí và Phân loại Nghề nghiệp của Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labor Organisation) www.ilo.org/public/english/bbureau/stat/isco/

 

9 Quyết định số 1981/QĐ-TTg về Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân do Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký và Quyết định số 1982/QĐ-TTg về Phê duyệt Khung trình độ Việt Nam do Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam ký. Cả hai Quyết định ký cùng ngày 18/10/2016.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16025)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3711)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6083)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6276)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3973)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8313)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5597)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15590)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10829)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7917)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]